Đảm bảo quyền con người trong khiếu nại & khởi kiện vụ án hành chính theo pháp luật Việt Nam

ĐẶT VẤN ĐỀ[1]

          Quyền con người là toàn bộ các quyền và đặc quyền được công nhận dành cho con người như quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc và và quyền được bảo vệ công bằng trước pháp luật….. Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Quyền con người là quyền mà bất cứ quốc gia, Nhà nước, nền pháp luật nào cũng phải có trách nhiệm bảo vệ. Nhà nước và pháp luật Việt Nam cũng không ngoại lệ. Hiến pháp năm 2013 đã nêu rõ quy định rõ về quyền con người tại Điều 14 rằng “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.

          Luật hành chính là ngành luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lý hành chính Nhà nước hay nói cách khác là hoạt động chấp hành – điều hành của Nhà nước qua đó thể hiện rõ nét mối quan hệ “quyền lực – phục tùng” giữa chủ thể quản lý Nhà nước và các đối tượng quản lý. Ở đây đã xuất hiện sự mâu thuẫn giữa quyền tự do bản ngã của mỗi cá nhân với việc phải từ bỏ một phần sự tự do của mỗi con người khi là công dân của một quốc gia bằng việc điều chỉnh hành vi của mình phù hợp theo quy định của pháp luật là vấn đề hết sức thú vị cần có nhiều nghiên cứu, đánh giá cả về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng. Trong lĩnh vực khiếu nại, khởi kiện vụ án hành chính thì vấn đề trên luôn là đề tài được đông đảo những người làm công tác xây dựng và thi hành pháp luật tại Việt Nam quan tâm.   

I. SƠ LƯỢC VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

  1. Quyền con người là gì?

“Quyền con người”– ba từ tuy rất ngắn gọn nhưng lại là một khái niệm có bề dày lịch sử hình thành kéo dài từ thời cổ đại cho đến thế giới hiện đại ngày nay; trải rộng trên hầu khắp các quốc gia, vùng lãnh thổ và được định hình bởi nhiều nền văn hóa, cộng đồng dân cư trên toàn thế giới. Vậy, “quyền con người” là gì và vì sao thuật ngữ này lại phổ biến đồng thời mọi quốc gia, Nhà nước và nền pháp luật trên toàn thế giới đều phải có trách nhiệm bảo vệ? Qua quá trình tìm hiểu và chắt lọc các thông tin liên quan đến khái niệm này, tác giả xin phép được khái quát lại một số điểm chính để trả lời cho câu hỏi vừa nêu. Tác giả nhận thức rằng, chỉ khi hiểu được quyền con người là gì và lý do cần bảo đảm quyền con người thì mới có thể soi chiếu lại các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về khiếu nại và khởi kiện vụ án hành chính nhằm đưa ra các so sánh, đánh giá và nhận định về vấn đề bảo đảm quyền con người trong hai lĩnh vực này tại Việt Nam hiện nay.  

Quyền con người là toàn bộ các quyền và đặc quyền được công nhận dành cho con người như quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc và quyền được bảo vệ công bằng trước pháp luật….. Quyền con người có thể hiểu là những quyền tự nhiên có từ khi sinh ra của mỗi con người, không cần có ai ban phát hoặc công nhận mà là “hiển nhiên có” và không thể bị tước bỏ bởi bất cứ ai hoặc bất cứ tổ chức nào. Do vậy, quyền con người là vốn có và khách quan của mỗi người. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, ngài Thomas Jefferson đã đưa ra một nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho sự thành lập chính phủ dân chủ, nguyên tắc đó có thể khái quát rằng: các Chính phủ trong thể chế dân chủ không ban phát các quyền tự do cơ bản của mỗi con người, mỗi công dân trong xã hội do Chính phủ quản lý mà chính các Chính phủ đó được lập ra làm đại diện cho toàn thể công dân để bảo vệ các quyền tự do đó. Đây là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mỗi con người đồng nghĩa với việc toàn thể nhân loại đều phải ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.

2. Quan niệm và vấn đề bảo đảm quyền con người qua các thời kỳ lịch sử trên thế giới và tại Việt Nam

2.1 Thế giới

Ngay từ thời kỳ cổ đại cho đến thời kỳ cận đại, các Triết gia nổi tiếng như như  Zeno (333‐264 TCN), Thomas Hobbes (1588‐1679), John Locke (1632‐ 1704), Thomas Paine (1731‐1809)…đều cho rằng quyền con người là bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra  đều được hưởng vì họ là thành viên của nhân loại. Các quyền con người không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ ai, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay Nhà nước nào và không một chủ thể nào, kể cả các Nhà nước, có thể ban phát hay tùy tiện tước bỏ các quyền con người. Cách thức để bảo vệ quyền con người tốt nhất chính là pháp điển hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Các tuyên ngôn và quy định về bảo đảm quyền con người trên thế giới đã trải dài qua nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong lịch sử xã hội loài người. Từ sơ khai cổ đại đã xuất hiện các văn bản đại diện tiêu biểu còn được biết đến hoặc còn được lưu giữ thông tin cho đến ngày nay như Bộ luật cải cách của Urukagina thành phố Lagash (khoảng năm 2350 TCN); Bộ luật cổ Luật Ur-Nammu thời Tân Sumer (khoảng 2050 TCN)…cho đến Trụ Cyrus (Cyrus Cylinder) được cho là hiến chương đầu tiên của nhân quyền thế giới. Đại diện cho thời kỳ cận đại tiêu biểu nhất cần nhắc đến đó là Hiến chương Magna Carta của người Anh lần đầu tiên được công bố năm 1215; Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của người Pháp và các Công ước Genève. Trong xã hội hiện đại ngày nay, LHQ là cơ quan liên chính phủ đa phương duy nhất có quyền xét xử quốc tế được chấp nhận rộng rãi về pháp chế nhân quyền chung. Văn kiện quốc tế có giá trị cao nhất hiện nay liên quan đến vấn đề quyền con người mà tất cả các quốc gia thành viên LHQ trên thế giới phải tuân thủ là Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền được Đại hội đồng LHQ  thông qua ngày 10/12/ 1948 tại Pháp. Ngoài ra, các khối quốc gia, vùng lãnh thổ và các quốc gia trên thế giới hầu hết đều có các văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề quyền con người. Sơ lược như trên để thấy rằng “quyền con người” là một vấn đề rất quan trọng, có tầm vĩ mô và được toàn thể nhân loại quan tâm và bảo vệ, phát triển trong suốt chiều dành lịch sử loài người chứ không chỉ riêng tại Việt Nam.

2.2 Việt Nam

Ở Việt Nam, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn được tôn trọng và bảo đảm bởi Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ từ năm 1946, 1959, 1980, 1992 (có sửa đổi bổ sung vào năm 2001) và Hiến pháp năm 2013 đều đã thể hiện rõ sự công nhận, quan tâm của Đảng và Nhà nước về vấn đề này đồng thời pháp luật Việt Nam luôn làm rõ trách nhiệm bảo đảm quyền con người của mỗi công dân Việt Nam của Nhà nước. Các cuộc chiến tranh giành độc lập, bảo vệ chủ quyền đất nước của cha ông ta trong lịch sử cũng chính là nhằm giành được độc lập, tự do, hạnh phúc cho toàn dân tộc hay nói cách khác chính là bảo vệ “quyền con người” cho mỗi công dân Việt Nam. Không thuần túy chỉ là hô hào, khẩu hiệu mà ngay từ những văn bản pháp luật sơ khai từ thời kỳ mới giành lại độc lập và thống nhất đất nước cho đến tận ngày nay, Nhà nước ta đã cụ thể hóa bằng hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể để thực thi trên thực tế. Các quy định mà Nhà nước đặt ra trong việc khiếu nại và khởi kiện vụ án hành chính mà tác giả sẽ phân tích ở phần sau của bài viết qua các thời kỳ lập pháp cũng đều thể hiện việc tuân thủ Hiến pháp, sự công nhận, quan tâm và chính sách bảo đảm quyền con người cho mỗi công dân Việt Nam mà Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện.

 Trên phương diện ngoại giao, Việt Nam hiện nay đã tham gia hầu hết các Công ước quốc tế về quyền con người như Công ước quốc tế về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979, Công ước về quyền trẻ em năm 1989, Công ước về quyền của người khuyết tật năm 2006 v.v…Quá trình tham gia các Công ước nêu trên, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, to lớn vì mục tiêu bảo vệ và phát triển “quyền con người” của toàn thể công dân Việt Nam nói riêng và cộng đồng nhân loại trên toàn thế giới nói chung.

Với việc tổng hợp và khái quát về các vấn đề liên quan đến định nghĩa “quyền con người” cũng như lịch sự hình thành, phát triển và bảo vệ quyền con người, tác giả hiểu rằng đây là một vấn đề đặc biệt quan trọng không chỉ đối với cá nhân tác giả hay mỗi công dân Việt Nam nói riêng mà có giá trị đối với toàn thể nhân loại nói chung. Quyền con người là một vấn đề vừa có tính lịch sử nhưng cũng luôn có tính thời đại bởi ngày nào còn tồn tại thế giới loài người trên hành tinh này, quyền con người sẽ luôn là vấn đề được toàn thể xã hội loài người quan tâm và bảo vệ.

2.3 Vì sao cần đặt ra vấn đề bảo đảm quyền con người trong xây dựng và thực thi pháp luật?

Nếu hiểu rằng “quyền con người” là một phạm trù vô cùng rộng lớn và có tính chất “bất khả xâm phạm” bởi thuộc về khách quan do đó là quyền vốn có của con người, sinh ra bởi con người tự nhiên và không có bất cứ chủ thể nào có thể xâm phạm vậy phải chăng mỗi con người từ khi sinh ra đã có “quyền con người” thì đồng nghĩa với việc chúng ta có thể tự do thụ hưởng và thực hiện thỏa thích mọi hành vi mà chúng ta mong muốn? Bởi quyền con người là khách quan sinh ra bởi vốn có và gắn liền với loài người, là thiêng liêng bất khả xâm phạm vậy thì tại sao lại phải đặt ra vấn đề bảo đảm quyền con người? Tại sao lại có nhiều các tổ chức nhân quyền được tạo lập ra và duy trình vận hành trên toàn thế giới cho đến hiện nay nhằm mục tiêu bảo vệ “quyền con người”? Vì sao Văn phòng Cao ủy LHQ phải đưa ra nhận định rằng : “nhân quyền là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những tự do cơ bản của con người”? Phải chăng thực tiễn xã hội loài người đã chứng kiến suốt chiều dài lịch sử tồn tại những yếu tố có thể xâm phạm trực tiếp đến “quyền con người” nên cần phải đặt ra vấn đề bảo vệ? Đây là một điểm mà tác giả cảm thấy cực kỳ thú vị trong nghiên cứu lĩnh vực luật hành chính. Bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng cần có Nhà nước hợp pháp quản lý, điều hành để bảo đảm an sinh và sự ổn định, trật tự xã hội cũng như đại diện cho cộng đồng dân cư sinh sống tại quốc gia đó trong tương quan mối quan hệ quốc tế với các cộng đồng dân cư được quản lý, điều hành bởi các Nhà nước khác trên thế giới. Sự quản lý của Nhà nước là nhằm bảo đảm các hoạt động trong xã hội của cộng đồng dân cư tại quốc gia đó được vận hành ổn định và tuân theo các chuẩn mực đạo đức, pháp luật phù hợp với đặc trưng văn hóa và đặc điểm tự nhiên tại khu vực địa lý mà cộng đồng dân cư đó đang sinh sống. Lịch sử loài người cũng đã chứng kiến những Nhà nước qua các thời kỳ cổ đại, cận đại và ngay thời hiện đại ngày nay đã vì lợi ích của giai cấp thống trị mà xâm phạm trực tiếp đến “quyền con người” của các tầng lớp khác trong xã hội. Xã hội hiện đại ngày càng phát triển thì các mối quan hệ trong cộng đồng loài người nói chung và mỗi cộng đồng dân cư tại mỗi quốc gia lại càng phức tạp hơn. Phương thức quản lý chính thống được các Nhà nước duy trì từ thời cổ đại đến hiện đại ngày nay đó là quản lý bằng các văn bản quy phạm pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản chứa đựng các quy định được ban hành bởi chủ thể có thẩm quyền, chứa đựng ý chí của chủ thể ban hành, tuân theo hình thức, trình tự thủ tục ban hành, bắt buộc thực hiện và được bảo đảm bởi quyền lực Nhà nước. Mỗi cá nhân sinh sống tại quốc gia được điều hành bởi một Nhà nước, Chính phủ thì với tư cách là công dân của quốc gia đó, các cá nhân phải tuân thủ, chấp hành quy định pháp luật mà Nhà nước, Chính phủ của quốc gia đó đặt ra và nếu không chấp hành thì phải chịu những chế tài theo quy định. Điều này đồng nghĩa rằng mỗi cá nhân phải tự từ bỏ một phần quyền tự do trong “quyền con người” của mình để hòa nhập vào cuộc sống của cộng đồng dân cư nơi mà mình đang sinh sống. Chính vì những đặc điểm này, ranh giới giữa hoạt động quản lý của Nhà nước với việc xâm phạm quyền tự do, quyền con người của các cá nhân trong xã hội trở nên rất mong manh. Các quy định của pháp luật và hoạt động của các cá nhân, tổ chức, cơ quan quản lý Nhà nước nếu không được kiểm tra, giám sát chặt chẽ rất dễ dẫn đến sự lạm quyền và xâm phạm trực tiếp đến quyền con người của các cá nhân trong xã hội. Đây cũng chính là điểm thể hiện tính chất mâu thuẫn giữa vấn đề “quyền con người” của mỗi cá nhân với hoạt động quản lý của các Nhà nước được tạo lập bởi các cộng đồng dân cư tại mỗi quốc gia trên thế giới. Là mâu thuẫn giữa sự tự do mang tính bản năng chứa đựng trong từng cá thể loài người có sẵn từ khi sinh ra với việc mỗi cá thể phải tự từ bỏ một phần tự do của bản thân để hòa nhập với cộng đồng dân cư nơi quốc gia mà mình đang sinh sống thông qua việc tuân thủ các quy định của pháp luật mà Nhà nước của quốc gia đó đã ban hành. Có lẽ bởi lịch sử nhân loại đã chứng kiến quá nhiều những Nhà nước vì bảo vệ quyền lực của giai cấp thống trị mà đã xâm phạm trực tiếp đến “quyền con người” của các tầng lớp khác, do vậy, khi nào loài người còn phải sống trong xã hội phân hóa giữa tầng lớp thống trị với các tầng lớp khác trong xã hội thì khi đó, vấn đề bảo đảm “quyền con người” vẫn sẽ luôn là chủ đề mang tính thời sự được toàn thể nhân loại quan tâm và cụ thể hóa bằng việc xây dựng và thực thi pháp luật bởi mỗi quốc gia trên thế giới.

II. ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI TRONG HOẠT ĐỘNG KHIẾU NẠI VÀ KHỞI KIỆN VỤ ÁN HÀNH CHÍNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

          Trước khi đi vào phân tích, đánh giá về khiếu nại và khởi kiện vụ án hành chính trong tương quan so sánh dưới góc độ bảo đảm quyền con người, tác giả thấy rằng cần phải nắm bắt được những vấn đề cơ bản liên quan đến khiếu nại và khởi kiện vụ án hành chính đặc biệt là quá trình hình thành và phát triển các quy định của pháp luật liên quan đến hai lĩnh vực này để hiểu được định hướng, tư tưởng và mục tiêu bảo đảm quyền con người của mỗi công dân Việt Nam mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra qua các thời kỳ lịch sử của đất nước qua đó xem xét các quy định pháp luật hiện hành trong khiếu nại và khởi kiện vụ án hành chính và so sánh giữa hai hình thức này.  

          1. Vấn đề bảo đảm quyền con người trong việc khiếu nại hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Như đã phân tích ở phần I, để bảo đảm an sinh và sự ổn định, trật tự xã hội cũng như đại diện cho cộng đồng dân cư sinh sống tại quốc gia đó trong tương quan mối quan hệ quốc tế, bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng cần có Nhà nước hợp pháp quản lý, điều hành. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Nhà nước Việt Nam được khai sinh sau bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại năm 1945 đã đánh dấu mốc trên bản đồ thế giới cho một quốc gia Việt Nam độc lập, tự do và là đại diện chính thức cho cộng đồng 54 dân tộc anh em cùng chung sống trên khu vực địa lý được xác định thuộc chủ quyền của Việt Nam trên bản đồ thế giới. Nhà nước Việt Nam là đại diện hợp pháp cho toàn bộ cộng đồng dân cư Việt Nam để nói tiếng nói của toàn thể nhân dan Việt Nam trên diễn đàn quốc tế đồng thời đóng vai trò quản lý, điều hành toàn bộ hoạt động xã hội trong cộng đồng dân cư Việt Nam nhằm bảo đảm sự ổn định, an toàn và phát triển của đất nước Việt Nam nói chung và mỗi cá nhân công dân Việt Nam nói riêng. Mỗi cá nhân khi sinh ra hoặc lựa chọn để trở thành công dân Việt Nam đều phải tuân thủ theo các quy định pháp luật mà Nhà nước Việt Nam đã đặt ra đồng thời chịu sự quản lý của Nhà nước để bảo đảm cho sự an toàn, ổn định và phát triển chung của xã hội Việt Nam hay nói cách khác là tự từ bỏ một phần quyền tự do trong “quyền con người” của cá nhân của mình. Và ngược lại, Nhà nước Việt Nam phải có trách nhiệm bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp cho mỗi công dân Việt Nam.

Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của nhân dân Việt nam, do nhân dân Việt Nam lập nên và hoạt động vì lợi ích của toàn thể nhân dân Việt Nam. Với tiêu chí hoạt động này, ngay từ thời kỳ sơ khai thành lập năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt quy định về việc tiếp nhận các đơn thư khiếu tố nhằm giám sát hoạt động của các cơ quan quản lý và nhân viên của các cơ quan quản lý. Thông tư số 203 NV/VP ngày 25/5/1946 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ về khiếu tố nói rõ: “Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ thiết lập trên nền tảng dân chủ, có bổn phận đảm bảo công lý và vì thế rất để ý đến nguyện vọng của dân chúng và sẵn lòng xem xét những nỗi oan khuất trong dân gian”. Thông tư này đã sơ khai hướng dẫn cho công dân thủ tục gửi đơn, giới thiệu thẩm quyền của các cơ quan, thời hạn để giải quyết khiếu tố. Đến năm 1949, Sắc lệnh số 138b-SL ngày 18/12/1949 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành đã quy định về vai trò của Ban Thanh tra Chính phủ trực thuộc Thủ tướng Phủ là “xem xét thi hành chủ trương của Chính ph”; “thanh tra các uỷ viên UBKCHC và viên chức về phương diện liêm khiết”  đồng thời “ Thanh tra các sự khiếu nại của nhân dân”. Tiếp đến là Thông tư số 436/TTg ngày 13/9/1958 của Thủ tướng Chính phủ quy định trách nhiệm, quyền hạn và tổ chức của cơ quan chính quyền trong việc giải quyết các loại đơn thư khiếu nại, tố cáo (gọi tắt là khiếu tố) của nhân dân. 

Như vậy có thể thấy, ngay từ thời kỳ đầu sơ khai thành lập, Nhà nước Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng của việc bảo đảm quyền con người của mỗi công dân Việt Nam trong việc giám sát các hoạt động quản lý hành chính Nhà nước của các cơ quan, cá nhân, tổ chức quản lý. Bởi Đảng và Nhà nước ta nhận thức rất rõ rằng, chỉ khi nhân dân cảm thấy lẽ công bằng, yên tâm và tin tưởng vào các chính sách, quyết sách điều hành của Nhà nước thì mới có thể tự nguyện từ bỏ một phần sự tự do cá nhân – một phần quyền con người của mỗi người – để thích nghi với sự quản lý của Nhà nước và hòa nhập vào sự phát triển chung của toàn xã hội. Các văn bản nêu trên là các văn kiện đã đặt nền móng khởi đầu cho hàng loạt các quy định của pháp luật Việt Nam nhằm bảo vệ quyền khiếu nại, khởi kiện vụ án hành chính của công dân Việt Nam trong tương lai.

Tiếp theo giai đoạn nêu trên, trong suốt chiều dài xây dựng và phát triển Hiến pháp và pháp luật của nước ta qua các thời kỳ (Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 có sửa đổi bổ sung vào năm 2001 và Hiến pháp năm 2013) đều ghi nhận các quyền khiếu nại, tố cáo của công dân về các hành vi vi phạm pháp luật của các cá nhân, tổ chức, cơ quan quản lý hành chính Nhà nước. Tiêu biểu, Điều 29 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền khiếu nại, tố cáo bất cứ cơ quan Nhà nước nào về những hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước. Những khiếu nại và tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan Nhà nước có quyền được bồi thường.” hay đến Điều 73 Hiến pháp năm 1980 đã quy định cụ thể hơn, chi tiết hơn rằng  “1. Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan, tổ chức và đơn vị đó; 2. Các điều khiếu nại, tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng; 3. Mọi hành động xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của công dân phải được kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường; 4. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo”. Cho đến ngày nay, Hiến pháp năm 2013 đã quy định cụ thể về quyền khiếu nại, tố cáo của mọi công dân Việt Nam rằng : “1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân; 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật; 3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”.

Như vậy, quyền khiếu nại, tố cáo các hành vi sai trái của các cá nhân, cơ quan, tổ chức quản lý Nhà nước là quyền hiến định của mỗi công dân Việt Nam đã được ghi nhận bởi các bản Hiến pháp được ban hành trong suốt chiều dài lịch sử từ khi sơ khai xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam cho đến hiện nay nhằm bảo đảm thi hành chủ trương “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” mà Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta đã lựa chọn.

Để cụ thể cho việc thực thi Hiến pháp qua các thời kỳ như nêu trên, Nhà nước Việt Nam đã ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm việc thực thi quyền hiến định này của mọi công dân Việt Nam. Cột mốc đầu tiên được đánh dấu rõ nét nhất là Pháp lệnh quy định việc xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 27/11/1981. Nói đây là dấu ấn rõ nét nhất bởi Pháp lệnh này đã quy định một cách rõ ràng, chi tiết và đầy đủ về quy trình tiếp nhận, giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân. Pháp lệnh năm 1981 gồm những quy định chung về quyền khiếu nại, tố cáo và thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo (Chương I); việc tiếp nhận các khiếu nại, tố cáo (Chương II); thẩm quyền và thời hạn xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo (Chương III); việc quản lý kiểm tra công tác xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo (Chương IV); việc xử lý vi phạm (Chương V) và Điều khoản cuối cùng (Chương VI). Để cụ thể pháp lệnh này, ngày 29/03/1982, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 58/HĐBT quy định cụ thể về thẩm quyền và trách nhiệm của công dân trong việc khiếu nại, tố cáo. Theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật này, đối tượng của khiếu nại rất rộng và không có ranh giới nhằm phân biệt giữa khiếu nại với tố cáo đồng thời chưa thể hiện rõ tính chất của khiếu nại hành chính. Điều 1 Pháp lệnh năm 1981 đã quy định rằng : “Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan nào của Nhà nước về những việc làm trái chính sách pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, văn hoá, xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc cơ quan, đơn vị, tổ chức đó làm thiệt hại đến lợí ích của Nhà nước, của tập thể và quyền lợi chính đáng của công dân”. Pháp lệnh này cũng định hướng cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo là cấp trên – cấp dưới theo hệ thống thứ bậc, thẩm quyền giải quyết khiếu nại thuộc về thủ trưởng cấp trên của người bị khiếu nại cho dù người bị khiếu nại dù là thủ trưởng cơ quan Nhà nước cũng không có thẩm quyền tự giải quyết khiếu nại đối với việc làm của chính mình. Điều này đồng nghĩa với việc sự khiếu nại của công dân là không có điểm dừng khi cứ hết cấp khiếu nại này sẽ chuyển tiếp lên cấp cao hơn. Dù còn nhiều hạn chế về kỹ thuật lập pháp nhưng quy định tại các văn bản nêu trên đã thể hiện sự phù hợp với bối cảnh xã hội Việt Nam, phù hợp với trình độ hiểu biết pháp luật của nhân dân Việt Nam và sự phát triển của Nhà nước Việt Nam tại thời kỳ đó đồng thời đã thể hiện tư tưởng dân chủ và đề cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại của công dân nhằm bảo đảm thực thi dân chủ công bằng xã hội khi mọi công dân Việt Nam đều được tạo điều kiện thực hiện quyền con người, được thực thi quyền khiếu nại, tố cáo của mình. Tư tưởng dân chủ và đề cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các văn bản sơ khai nêu trên đã được giữ vững và thể hiện xuyên suốt chiều dài lịch sử lập pháp của Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ thể hiện qua nhiều văn bản quy phạm pháp luật tiếp nối như Pháp lệnh KN,TC của công dân năm 1991; Luật KN,TC năm 1998. Cho đến hiện nay, xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn và có sự phát triển của kỹ thuật lập pháp mà khiếu nại và tố cáo dần dần có sự phân biệt cơ bản về lý luận, nhận thức dẫn đến việc Nhà nước đã ban hành Luật KN năm 2011 và Luật TC năm 2011 riêng biệt. Đến nay, Luật TC năm 2011 đã được thay thế bằng Luật TC năm 2018. Đây là những bước tiến đáng kể trong kỹ thuật lập pháp và là cơ sở pháp lý hết sức quan trọng giúp cho mọi công dân Việt Nam thuận tiện trong việc thực hiện quyền khiếu nại và quyền tố cáo của mình đồng thời góp phần nhấn mạnh tư tưởng dân chủ và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý các khiếu nại, tố cáo theo đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền mà pháp luật quy định.

Những thông tin khái quát nêu trên có thể thấy dấu ấn rất đậm nét của định hướng giải quyết mâu thuẫn trong quan hệ quản lý hành chính thông qua hoạt động khiếu nại, tố cáo. Câu hỏi được đặt ra ở đây là : Liệu có chăng bằng việc quy định thẩm quyền xử lý khiếu nại, tố cáo được giao cho các cấp trên quản lý của các cá nhân, cơ quan, tổ chức bị khiếu nại có tạo ra hành lang cho sự bao che của cấp trên cho cấp dưới hay không khi cùng một hệ thống các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước? Việc cấp trên giải quyết các khiếu nại, tố cáo đối với cấp dưới liệu có triệt để và có bảo đảm lẽ công bằng, quyền con người của công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo khi cả cấp trên và cấp dưới cũng đều là các cá nhân đứng trong hàng ngũ cơ quan Nhà nước? Liệu có hay không sự không thể bảo đảm tốt nhất quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi các mâu thuẫn không được giải quyết thỏa đáng thông qua khiếu nại, tố cáo khi mà người khiếu nại, tố cáo còn lo sợ bị trù dập, trả thù? Và hàng loạt các câu hỏi đặt ra về tính hiệu quả của hoạt động khiếu nại, tố cáo của các cơ quan quản lý khi thực tế luôn tồn tại các khiếu nại, tố cáo vượt cấp và kéo dài suốt nhiều năm không được giải quyết triệt để dẫn đến những bất bình trong xã hội… Các câu hỏi trên không phải bây giờ các nhà lập pháp cũng như dư luận xã hội mới đặt ra và tìm kiếm phương án giải quyết. Và một trong các phương án rất thú vị đã giải quyết tích cực cho các câu hỏi nêu trên chính là đưa các mâu thuẫn liên quan đến lĩnh vực hành chính ra giải quyết theo trình tự tố tụng tại các cơ quan TTHC mà tác giả sẽ trình bày dưới đây.

          2. Vấn đề bảo đảm quyền con người trong việc khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Phương án đã được thực thi trên thực tế hiện nay đó là trao quyền giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực hành chính cho TAND cấp có thẩm quyền. Nếu các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước là hệ thống các cơ quan hành pháp thì TAND các cấp là hệ thống các cơ quan tư pháp thực hiện quyền tài phán độc lập, khách quan và không bị chi phối bởi quyền lực của các cơ quan hành pháp. Mọi hoạt động xét xử của TAND là độc lập và chỉ tuân theo quy định của pháp luật. Vấn đề bảo đảm quyền con người cho mỗi công dân trong khởi kiện vụ án hành chính được thể hiện thông qua việc Nhà nước thiết lập các văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm khả năng thực thi các quyền con người của mỗi công dân Việt Nam trong quá trình giải quyết tranh chấp hành chính bằng con đường tố tụng theo một cơ chế riêng được điều chỉnh bởi ngành luật TTHC. Phương án này cũng phù hợp với học thuyết tam quyền phân lập – phân chia quyền lực Nhà nước – theo ba nhánh là lập pháp, tư pháp và hành pháp mà Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương theo đuổi trong quá trình quản lý, điều hành đất nước. Trao quyền giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực hành chính cho các cơ quan tư pháp là TAND là phương thức hữu hiệu nhằm giám sát hoạt động của hệ thống cơ quan hành pháp nhằm bảo đảm quyền con người của mỗi công dân Việt Nam đồng thời cũng là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân trước pháp luật.

Các cột mốc đầu tiên cho tư tưởng tiến bộ này được đánh dấu bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức TAND được Quốc hội khóa IX thông qua ngày 28/10/1995 và đến ngày 21/5/1996, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Tiếp theo đó là Luật tổ chức TAND được Quốc hội khóa IX thông qua ngày 28/10/1995 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21/5/1996 đã thể hiện một sự thay đổi đáng kể về tư tưởng quản lý khi nhìn nhận đúng vào những bất cập của hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo giai đoạn trước năm 1996. Đây là những văn bản pháp lý rất quan trọng đánh dấu sự ra đời của cơ chế tài phán hành chính ở Việt Nam thể hiện sự tiến bộ về tư tưởng dân chủ hóa xã hội, bảo vệ quyền con người, bảo vệ các quyền dân sự của mọi công dân Việt Nam trong việc giải quyết các tranh chấp hành chính đồng thời thể hiện quyết tâm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.

Vậy tại sao trước năm 1996 không có hoạt động TTHC ở nước ta? Chính bởi trước giai đoạn này, quan điểm xây dựng đất nước theo tư tưởng xã hội chủ nghĩa không thừa nhận thuyết tam quyền phân lập là lập pháp – tư pháp – hành pháp cộng với tư tưởng cho rằng việc thành lập các cơ quan tài phán hành chính là điều không cần thiết bởi Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, phục vụ lợi ích cho nhân dân thì làm sao lại có thể có sự mâu thuẫn giữa Nhà nước với quyền lợi với nhân dân? Nếu không có mâu thuẫn, không có tranh chấp thì đâu có cơ sở để thành lập cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp? Hơn nữa, giai đoạn này tồn tại quan điểm xây dựng xã hội tập thể khi quyền lợi của tập thể phải được đề cao và đặt lên trên lợi ích của cá nhân. Cơ quan quản lý hành chính Nhà nước được thành lập từ sự bầu cử của toàn thể nhân dân Việt Nam và hoạt động nhằm mục đích bảo đảm quyền lợi cho toàn thể nhân dân Việt Nam, do vậy, các quyết định được ban hành bởi cơ quan quản lý hành chính Nhà nước chính là đại diện cho ý chí của toàn thể nhân dân và vì lợi ích tập thể. Nếu có sự mâu thuẫn về lợi ích với cá nhân nào trong xã hội thì đồng nghĩa rằng lợi ích của cá nhân đó phải đặt dưới lợi ích của tập thể, phục tùng lợi ích của tập thể đồng nghĩa với phục tùng mệnh lệnh của cơ quan quản lý hành chính Nhà nước.

Tuy nhiên, Nhà nước là một khái niệm trừu tượng và hoạt động của Nhà nước thì được vận hành bởi các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cụ thể theo quy định của pháp luật. Sự khác biệt về trình độ hiểu biết về quy định pháp luật, khác biệt về đạo đức và ý thức chấp hành pháp luật của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức thi hành pháp luật cũng có sự khác biệt. Trên thực tế, sai phạm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong quá trình thực thi pháp luật là có và xu hướng chung ngày càng tăng (hoặc tác giả đặt giả thiết rằng : vốn dĩ có rất nhiều sai phạm nhưng bởi không có cơ sở pháp lý vững chắc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cũng như sợ bị trù dập, trả thù cũng như chưa có sự phát triển của truyền thông như ngày nay nên số vụ việc sai phạm bị đưa ra trước dư luận ít hơn?). Nhiều sai phạm xảy ra đã gây bất bình sâu rộng trong dư luận xã hội, làm tổn thất lợi ích của Nhà nước và tổn hại lợi ích của cá nhân trong xã hội.

Quá trình áp dụng, tổng kết, đánh giá hiệu quả từ việc thực thi các văn bản nêu trên là cơ sở cho sự ra đời của Luật TTHC số 64/2010/QH12 được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24/11/2010 và là văn bản quy phạm pháp luật chính thức quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục TTHC tại các cơ quan tiến hành tố tụng. Đến nay, Luật TTHC năm 2010 đã được thay thế bởi Luật TTHC số 93/2015/QH13 được Quốc hội nước khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015 và có giá trị thi hành. Với việc ra đời của các Luật TTHC nêu trên, các vụ án hành chính được giải quyết bởi Tòa Hành chính nằm trong hệ thống TAND theo một cơ chế riêng được điều chỉnh bởi ngành Luật TTHC. Các điều kiện pháp lý bảo đảm quyền công dân trong hoạt động TTHC bao gồm: Công dân được tự thực hiện quyền khởi kiện vụ án hành chính tại TAND cấp có thẩm quyền theo quy định của Luật TTHC; Nhà nước xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật TTHC hợp hiến, có tính thống nhất, tính khả thi khi áp dụng vào thực tiễn; có hệ thống Tòa Hành chính hoạt động có hiệu lực, hiệu quả với những Thẩm phán hành chính được đào tạo bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức hành nghề, xét xử độc lập, khách quan và chỉ tuân theo pháp luật; song song với đó là việc Nhà nước xây dựng hệ thống VKSND thực hiện quyền kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm hoạt động TTHC diễn ra đúng theo quy định của pháp luật; ngoài ra, công dân có quyền tự bảo vệ hoặc nhận sự trợ giúp pháp lý từ các Luật gia, Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý….nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật. Qua các phân tích trên có thể thấy rằng, sự thay đổi đáng kể về tư duy giải quyết các tranh chấp hành chính thông qua thủ tục TTHC đã và đang từng bước được xây dựng hoàn thiện, đồng bộ và là cơ sở pháp lý vững chắc giúp Nhà nước thực thi trách nhiệm bảo đảm quyền con người cho mỗi công dân Việt Nam.  

3. Đánh giá

Theo nhận định cá nhân của tác giả, sự khác nhau về căn bản, cốt lõi nhất giữa khiếu nại và khởi kiện vụ án hành chính là ở chỗ chủ thể thực thi việc giải quyết các mâu thuẫn tranh chấp trong quan hệ hành chính. Nếu khiếu nại là việc đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khiếu nại – hay nói ngắn gọn hơn là khiếu nại đến chính cơ quan quản lý hành chính đó hoặc cơ quan quản lý cấp trên nếu có căn cứ cho rằng cơ quan cấp dưới có quyết định, hành vi trái pháp luật để được xem xét, điều chỉnh lại cho phù hợp thì khởi kiện vụ án hành chính là đưa cơ quan hành chính có quyết định, hành vi hành chính được xác định là trái pháp luật ra trước TAND cấp có thẩm quyền – cơ quan tài phán độc lập – để tiến hành xét xử với tư cách là một bên trong quan hệ tố tụng ngang hàng với chủ thể khởi kiện. Giữa một bên là cơ chế xin – cho, trên – dưới với một bên là đặt cơ quan hành chính Nhà nước ngang hàng với công dân; quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đều phải được tôn trọng và bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật. Chính sự khác biệt này đã chỉ ra điểm tiến bộ mấu chốt về tư tưởng bảo đảm quyền con người cho mỗi công dân Việt Nam mà Đảng, Nhà nước ta đã thay đổi và định hình phát triển so với giai đoạn trước năm 1996. Sự thay đổi này cũng là biểu hiện rõ nét cho quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới hiện đại và vì sự phát triển chung của toàn nhân loại theo các Công ước, Điều ước quốc tế mà Việt Nam đã trở thành thành viên.

Kiến nghị riêng của tác giả cho vấn đề này trong giai đoạn sắp tới là cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật cho lĩnh vực TTHC tiến tới xóa bỏ hoàn toàn cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính thông qua con đường khiếu nại. Đưa các tranh chấp trong lĩnh vực hành chính ra giải quyết bằng thủ tục TTHC chính là cách tốt nhất để giám sát hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước theo thuyết tam quyền phân lập đồng thời là hoạt động thiết thực nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp hay nói rộng hơn chính là quyền con người cho mỗi công dân Việt Nam không bị xâm phạm bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật. Đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân. Khi nhân dân ý thức được rằng Đảng và Nhà nước luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền chính đáng của mỗi công dân bằng các quy định pháp luật cụ thể thì nhân dân sẽ luôn tin tưởng, yên tâm đi theo sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước để cùng đưa đất nước Việt Nam tiến lên giàu mạnh, thực sự là quốc gia độc lập, tự do, hạnh phúc đúng như những di nguyện mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã để lại cho muôn đời.

LỜI KẾT

          Tìm hiểu sơ lược về vấn đề quyền con người qua các giai đoạn lịch sử trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng cũng như lịch sử quá trình xây dựng và phát triển các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động khiếu nại và khởi kiện vụ án hành chính nêu trên giúp tác giả hiểu, ý thức được về quyền con người và quyền công dân của tác giả đối với quốc gia, Nhà nước và xã hội. Thông qua nghiên cứu đề tài này, tác giả đã học hỏi và nắm bắt được tư tưởng bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi công dân Việt Nam mà Đảng, Nhà nước ta đã chủ trương thực thi từ thuở sơ khai giành được độc lập cho đến ngày nay. Cho dù tồn tại nhiều tư tưởng hạn chế ở các giai đoạn trước thời kỳ năm 1996 nhưng từng bước pháp luật Việt Nam đã được Nhà nước xây dựng, hoàn thiện và có nhiều sự thay đổi tiến bộ phù hợp với thực tế và bối cảnh phát triển của Việt Nam nói riêng, phù hợp với xu thế của thế giới nói chung. Việc ban hành các Luật TTHC thừa nhận các mâu thuẫn xuất phát trong hoạt động quản lý hành chính và đưa các tranh chấp này ra cơ quan tài phán để giải quyết chính là chuyển biến tích cực nhất, thể hiện rõ được chủ trương, tư tưởng dân chủ và đề cao trách nhiệm của Nhà nước trong việc tiếp nhận, giải quyết các khiếu nại và khởi kiện vụ án hành chính nhằm bảo đảm quyền con người của mỗi công dân Việt Nam.

          Do tầm hiểu biết còn hạn hẹp nên các nhận định, quan điểm mà tác giả đưa ra trong phạm vi bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm. Tác giả rất mong nhận được các ý kiến đóng góp để bài viết được hoàn thiện hơn.    

          Xin trân trọng cảm ơn !

———————————-

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Các văn bản quy phạm pháp luật như đã nêu trong bài viết.
  2. Các trang tin, bài báo, bài viết nghiên cứu đã tham khảo:
  3. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng);
  4. Quyền tự do là gì? Các quan điểm về tự do trong lịch sử xã hội loài người (trang tin Luật Minh Khuê tổng hợp);
  5. Năm bản Hiến pháp của nước ta là những nấc thang lớn vươn tới Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (tác giả Lê Sơn);
  6. Hiểu biết pháp luật về khiếu nại tố cáo để giảm thiểu khiếu nại tố cáo sai (tác giả Anh Khánh);
  7. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở Việt Nam (Tác giả Đinh Văn MinhPhó Viện trưởng Viện Khoa học Thanh tra);
  8. Quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại theo Luật Khiếu nại năm 2011 (PGS.TS. Bùi Thị Đào –  Trường Đại học Luật Hà Nội);
  9. Phân biệt khiếu nại hành chính và khởi kiện hành chính (Nguồn: Trường Cán bộ Thanh tra, GV Phạm Thị Hường – Khoa Nghiệp vụ giải quyết KNTC​);
  10. Một số kinh nghiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính ở giai đoạn sơ thẩm (Phòng 10 – VKSND thành phố Hà Nội) ;
  11. Vai trò của Toà Hành chính trong bảo đảm quyền công dân theo Luật Tố tụng hành chính năm 2015 (ThS. Dương Thị Tươi, Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh);
  12. Bảo đảm quyền công dân trong tố tụng hành chính ở nước ta (ThS. Dương Thị Tươi, Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh);
  13. Trang tin mã nguồn mở Wikipedia;

[1] Tác giả : CCV Nguyễn Thị Thu Trang – Trưởng VPCC Nguyễn Trang, Tp. Hải Phòng