Thực trạng áp dụng pháp luật trong xử lý tình trạng cha mẹ có hành vi bạo lực đối với con vị thành niên

ĐẶT VẤN ĐỀ[1]

Gia đình là được coi là tế bào của xã hội, là nơi gắn bó với mỗi con người kể từ khi được sinh ra. Gia đình luôn là khái niệm được xã hội gắn với kỳ vọng là nơi khởi nguồn của cuộc sống, nơi chứa đựng những yêu thương, che chở, gắn bó bền vững và vô điều kiện, là nơi nuôi dưỡng những điều tốt đẹp trong tâm hồn của mỗi con người. Vì vậy, Luật Hôn nhân và gia đình qua nhiều thời kỳ luôn đặt ra những quy định nhằm gìn giữ và phát huy những điều tốt đẹp gắn với khái niệm gia đình nhằm hướng xã hội đến với sự ổn định, bền vững, lành mạnh ngay từ những quy chuẩn đạo đức trong gia đình được nâng lên thành pháp luật.

Tuy nhiên, nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng, qua ngàn đời kể từ khi tồn tại khái niệm “gia đình”, bên cạnh những gia đình hạnh phúc và từ đó nuôi dưỡng trưởng thành lên những người con lương thiện, có ích cho xã hội…thì đâu đó vẫn tồn tại quanh chúng ta những hoàn cảnh gia đình bất hạnh chìm trong bạo lực. Hành vi bạo lực có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, từ nhiều thành viên khác nhau trong gia đình, không loại trừ bất cứ ai với nhiều hình thái từ bạo lực tinh thần đến bạo lực về thể xác. Xã hội càng phát triển, guồng quay áp lực của cuộc sống càng nặng nề, phương tiện thông tin đại chúng ngày càng được phổ biến rộng rãi thì ngày càng có nhiều những trường hợp bạo lực gia đình được công bố gây phẫn nộ trong cộng đồng, đặc biệt là những trường hợp bạo lực xảy ra với trẻ em. Thực trạng này cho thấy sự cần thiết cần phải nghiên cứu, đánh giá về vấn đề này cũng như nghiêm túc nghiên cứu về thực tế áp dụng pháp luật giải quyết tình trạng cha mẹ có hành vi bạo lực đối với con, đặc biệt là con vị thành niên.

I. Bạo lực gia đình và bạo lực đối với trẻ em tại Việt Nam.

  1. Bạo lực gia đình

          Năm 1993 Liên Hợp quốc đã thông qua định nghĩa bạo lực gia đình, theo đó: “bạo lực gia đình là bất kỳ hành động bạo lực nào dẫn đến hoặc có thể dẫn đến những tổn thất về thân thể, tâm lý hay tình dục hay những đau khổ của người trong gia đình, bao gồm cả sự đe dọa có những hành động như vậy, việc cưỡng bức hay tước đoạt sự tự do”. Bạo lực gia đình để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng về cả thể xác và tinh thần cho người bị bạo hành, đặc biệt là đối với phụ nữ và trẻ em – nhóm những người yếu thế. Bạo lực gia đình đang xảy ra ở khắp nơi trên thế giới với nhiều dạng thức tinh vi không phân biệt dân tộc, màu da, tầng lớp, lứa tuổi, trình độ văn hóa, địa vị xã hội. Tình trạng này khiến nhiều tổ chức uy tín trên thế giới phải thường xuyên gióng lên những hồi chuông đáng báo động.

          Cho đến nay, Việt Nam là quốc gia duy nhất trên thế giới đã thực hiện thành công điều tra quốc gia lần thứ hai về bạo lực đối với phụ nữ, đặc biệt sử dụng phương pháp điều tra đa quốc gia về tình hình sức khỏe của phụ nữ và bạo lực gia đình của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Báo cáo Điều tra quốc gia về bạo lực đối với phụ nữ ở Việt Nam năm 2019 cho thấy, cứ 03 phụ nữ thì có gần 02 phụ nữ (gần 63%) bị một hoặc hơn một hình thức bạo lực thể xác, tình dục, tinh thần và bạo lực kinh tế cũng như kiểm soát hành vi do chồng gây ra trong cuộc đời và gần 32% phụ nữ bị bạo lực hiện thời (trong 12 tháng qua). Báo cáo cũng cho thấy, trẻ em là nạn nhân khi sống trong môi trường bạo lực. Trong số phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác, 61,4% cho biết con cái họ đã từng chứng kiến hoặc nghe thấy bạo lực. Phụ nữ bị chồng bạo lực thể xác và/hoặc tình dục nói rằng con cái họ (5-12 tuổi) thường có các vấn đề về hành vi. Bạo lực là hành vi có tính tiếp thu. Hành vi này có thể được ngăn chặn và chúng ta cần hành động ngay. Phụ nữ là nạn nhân của bạo lực do chồng gây ra thì nhiều khả năng mẹ của người chồng đã từng bị đánh hoặc bản thân người chồng đã bị đánh đập khi còn nhỏ… Điểm qua một vài thông tin nổi bật được công bố trong báo cáo điều tra quốc gia nêu trên cho thấy, bạo lực gia đình đang có xu hướng ngày càng gia tăng trong xã hội Việt Nam và gây lên những hệ lụy khủng khiếp về cả tinh thần, thể chất cho người bị bạo hành, gây thiệt hại về kinh tế (Ước tính thiệt hại kinh tế do bạo lực gia đình gây ra cho nền kinh tế Việt Nam tương đương với 1,8% GDP – theo báo cáo điều tra quốc gia nêu trên) và gây mất ổn định trật tự xã hội cũng như kéo dài hệ lụy cho trẻ em là những thế hệ mầm non trong tương lai vốn phải được chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi trường gia đình an toàn, lành mạnh, hạnh phúc để hình thành nhân cách tốt đẹp.

2. Bạo lực đối với trẻ em

          Ngoài phụ nữ là nạn nhân chính của bạo lực gia đình thì hiện nay còn có tình trạng bạo lực giữa cha mẹ và con cái. Mỗi người đều có cha mẹ sinh ra và hầu hết khi trưởng thành cũng trở thành cha, mẹ. Cha mẹ sinh ra con thì có bổn phận chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ và bảo vệ trẻ em trong suốt thời gian thơ ấu cho đến khi trưởng thành làm một cá thể độc lập trong xã hội. Đây là truyền thống đạo đức, văn hóa ngàn đời của nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng. Trẻ em cần được cảm thấy an toàn tại gia đình, trong nhà trường và trong cộng đồng của mình. Tuy nhiên, kỷ luật mang tính bạo lực vẫn còn phổ biến. Trong nhiều gia đình, bạo lực được sử dụng làm phương tiện để thiết lập hệ thống phân cấp của nam giới và củng cố nam tính. Hành vi như vậy bị ảnh hưởng bởi khả năng tài chính, trình độ học vấn của cha mẹ và các vấn đề khác như lạm dụng rượu hoặc ma túy. Do kỷ luật mang tính bạo lực vẫn là một tiêu chuẩn được xã hội chấp nhận, trẻ em đặc biệt dễ bị tổn thương khi các em có hiểu biết hạn chế về quyền của mình nên không lên tiếng và tìm sự giúp đỡ khi bạo hành xảy ra.  Người Việt Nam thường có câu “yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi” cùng với cách giáo dục nghiêm khắc khi coi việc chửi mắng, xúc phạm, trách móc, đánh đập….là cách tốt nhất để giáo dục trẻ em. Trên thực tế, nghiêm khắc là điều cần thiết trong giáo dục, nhưng không thể đánh đồng sự nghiêm khắc với hành vi bạo lực về thể chất và tinh thần đối với trẻ em – những cá nhân yếu đuối và cuộc sống hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào gia đình và những người nuôi dưỡng trực tiếp. Trẻ em phải chịu đựng hành vi bạo lực từ chính cha mẹ của mình sẽ tạo nên những ảnh hưởng tâm lý nặng nề khiến trẻ sống khép mình hơn, e ngại hơn và không thoải mái phát triển như những đứa trẻ bình thường.

          Công tác bảo vệ trẻ em, đặc biệt là việc phòng, chống bạo lực trẻ em trong gia đình chưa được quan tâm đúng mức, như trong năm 2021, theo báo cáo của Tổng đài 111, trẻ em bị bạo lực bởi người thân trong gia đình chiếm tỉ lệ cao nhất, chiếm 72,84%, tăng 5,3% so với năm 2020. Từ đó, để xảy ra một số vụ việc đặc biệt nghiêm trọng, gây bức xúc trong xã hội như vụ mẹ đẻ bạo hành con gái 6 tuổi ở Hải Dương; vụ bé gái 8 tuổi bị “người tình” của bố bạo lực ở Thành phố Hồ Chí Minh dẫn tới tử vong; vụ bé gái 3 tuổi ở Hà Nội bị “cha dượng” bạo hành, đóng đinh vào đầu; vụ người bố dùng dao cứa cổ 2 con,…Việc thông tin, thông báo, tố giác các trường hợp trẻ em bị xâm hại, trẻ em có nguy cơ bị xâm hại thực hiện chưa tốt, vẫn còn một nhiều người thờ ơ, vô cảm, không thông tin, thông báo kịp thời tới cơ quan chức năng, cơ quan có thẩm quyền bảo vệ trẻ em. Hoạt động của các cơ quan có vai trò, chức năng, nhiệm vụ bảo vệ trẻ em còn nặng hình thức, mờ nhạt và chưa thực sự đi sâu, phát huy vai trò trong thực tiễn. Xã hội ngày nay, khi những chuẩn mực tiến bộ về quyền con người đã và đang phổ biến trên thế giới thì những tư tưởng, cách làm này cần được sớm loại bỏ. Đặc biệt, là những trường hợp bạo lực với con cái vượt ra ngoài phạm vi giáo dục – một tình trạng ngày càng gia tăng thì cần phải bị trừng trị nghiêm khắc.

          Điều 19 Công ước của Liên Hợp quốc về Quyền trẻ em năm 1989 đã nhấn mạnh rằng: “Các Quốc gia thành viên phải thực hiện mọi biện pháp thích hợp về lập pháp, hành pháp, xã hội và giáo dục để bảo vệ trẻ em khỏi mọi hình thức bạo lực về thể chất hoặc tinh thần, bị đánh đập hay lạm dụng, bị bỏ mặc hoặc sao nhãng chăm sóc, bị ngược đãi hoặc bóc lột, gồm cả sự xâm phạm tình dục, trong khi trẻ em vẫn nằm trong vòng chăm sóc của cha, mẹ hoặc cả cha lẫn mẹ, của một hay nhiều người giám hộ pháp lý, hoặc của bất kỳ người nào khác được giao việc chăm sóc trẻ em. Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới và là nước đầu tiên tại Châu Á đã phê chuẩn và trở thành thành viên của Công ước này từ ngày 20/02/1990. Điều này chứng tỏ, Nhà nước Việt Nam luôn giành sự quan tâm đặc biệt đến việc bảo vệ và sự giáo dục, phát triển trẻ em – những mầm non tương lai của đất nước. Tất cả trẻ em đều có quyền được bảo vệ khỏi bạo hành, bất kể bản chất hay mức độ nghiêm trọng của hành vi này và mọi hình thức bạo hành đều có thể gây hại cho trẻ em, giảm lòng tự trọng, sự tôn trọng nhân phẩm và cản trở sự phát triển của trẻ.

II. Pháp luật về phòng chống bạo lực trẻ em tại Việt Nam

Là thành viên của Công ước của Liên Hợp quốc về Quyền trẻ em năm 1989, Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ và đến nay là Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận tại khoản 1 Điều 37 rằng: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Trên cơ sở quyền hiến định này của trẻ em, hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật được gia đình đều hướng tới quy định nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, đặc biệt là bảo vệ trẻ em trước vấn nạn bị bạo hành. Từ Luật Hôn nhân gia đình, Luật Trẻ em, Luật phòng chống bạo lực gia đình….cho đến Bộ luật dân sự có các quy định bảo vệ quyền lợi của trẻ em cho đến Bộ luật hình sự luôn có những hình phạt tăng nặng đối với tội phạm có hành vi bạo lực với trẻ em..và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác. Người có hành vi vi phạm pháp luật bạo lực với trẻ em có thể bị xử lý bằng các biện pháp khác nhau từ xử lý kỷ luật, xử lý hành chính; xử lý theo pháp luật dân sự; xử lý theo pháp luật hình sự.. Để các quyền của trẻ em được bảo đảm, Luật Trẻ em năm 2016 và Quyết định số 856/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (năm 2017) quy định, có 18 cơ quan, tổ chức, nhóm tổ chức đảm nhiệm chức năng bảo vệ quyền trẻ em ở các cấp độ khác nhau.Các cơ quan, tổ chức này gồm Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; Chính phủ; Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội; Bộ Tư pháp; Bộ Y tế; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Bộ Thông tin và Truyền thông; Bộ Công an; Ủy ban nhân dân các cấp; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; các tổ chức xã hội; tổ chức kinh tế; tổ chức phối hợp liên ngành về trẻ em; Quỹ Bảo trợ trẻ em; Ủy ban Quốc gia về trẻ em..

Như vậy có thể thấy, thực hiện đúng theo tinh thần của Công ước của Liên Hợp quốc về Quyền trẻ em năm 1989, Việt Nam đã nghiêm túc thực hiện nhiều chương trình hành động thiết thực, ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo vệ trẻ em trước vấn nạn bạo hành.

Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra cho chúng ta ở đây rằng, vì sao hệ thống pháp luật, hệ thống các cơ quan bảo vệ trẻ em được xây dựng rất đồng bộ, đồ sộ như trên nhưng trong thời gian qua, các vụ bạo hành đối với trẻ em lại có xu hướng ngày càng tăng về cả số lượng và tính chất ngày càng trở nên nghiêm trọng? Phải chăng, việc đặt ra các quy định và xây dựng các hệ thống cơ quan nêu trên còn mang nặng tính hình thức và chưa thực sự phát huy hiệu quả trong thực tiễn? Hay việc tuyên truyền, phổ biến và áp dụng pháp luật liên quan đến phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các vụ, việc bạo hành đối với trẻ em chưa được nghiêm túc triển khai thực hiện và vấp phải rào cản văn hóa khép kín của nhiều gia đình tại Việt Nam? …Hàng loạt các câu hỏi trên đã thôi thúc tác giả tìm hiểu về thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết tình trạng cha mẹ có hành vi bạo lực đối với con.

III. Thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết tình trạng cha mẹ có hành vi bạo lực đối với con

          Như tác giả đã phân tích ở trên, ở nước ta hiện nay, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình nói chung và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em được ban hành tương đối đầy đủ, có tính hệ thống và phù hợp với pháp luật thế giới. Vậy nhưng, các báo cáo thống kê và thực trạng ngày càng gia tăng vấn nạn bạo hành với trẻ em gây bức xúc trong dư luận xã hội đã phần nào phản ánh sự thiếu hiệu quả của việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tình trạng bạo lực với trẻ em.

          Thứ nhất, cần nhìn nhận nguyên nhân khách quan dẫn đến sự thiếu hiệu quả trong thực thi áp dụng pháp luật giải quyết tình trạng bạo lực với trẻ em theo tác giả thấy xuất phát từ các nguyên nhân khách quan như sau :

          – Văn hóa truyền thống của Việt Nam vẫn mang nặng xu hướng khép kín, ngại chia sẻ chuyện nội bộ trong gia đình với ngoài xã hội. Khi một đứa trẻ phải chịu đựng hành vi bạo lực từ người cha, người mẹ thường không dám tiết lộ với bên ngoài, không dám tố giác hành vi của người chồng vì sợ tai tiếng và bị mọi người bàn tán, cười nhạo.

          – Trẻ em là nhóm người yếu thế trong xã hội, cuộc sống hầu như phụ thuộc vào sự nuôi dưỡng, chăm sóc của cha mẹ và gia đình hoặc người chăm sóc trực tiếp. Đôi khi phải chịu đựng hành vi bạo lực nhưng bản thân trẻ cũng chưa đủ khả năng nhận thức đó là hành vi bạo lực của cha mẹ đối với mình. Sự sợ hãi của trẻ đối với cha mẹ có hành vi bạo lực cũng khiến trẻ không dám chia sẻ, tâm sự với bất cứ ai và âm thầm chịu đựng. Môi trường giáo dục tại nhà trường quá nặng kiến thức sách vở, nặng về thành tích dẫn đến các thầy cô giáo, bạn bè không thể có nhiều thời gian chất lượng để thực sự quan tâm, lắng nghe trẻ, thiếu những chương trình giáo dục kỹ năng sống cũng như phổ biến kiến thức pháp luật giúp trang bị cho trẻ những hiểu biết nhất định về hành vi bạo lực gia đình và biết cách phòng, chống bạo lực.

          – Trong trường hợp trẻ muốn tố cáo hành vi bạo lực của cha mẹ thì cũng không biết phải tố cáo với ai, với cơ quan nào và liệu có được bảo vệ an toàn trước những người có hành vi bạo lực hay sau khi tố cáo vẫn phải về nhà và còn phải chịu đựng những hành vi bạo lực còn khủng khiếp hơn trước?

          Thứ hai, giữa các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về việc phòng, chống bạo lực với trẻ em còn tồn tại nhiều mâu thuẫn dẫn đến khó khăn cho việc áp dụng, các hình phạt còn chưa nghiêm khắc và chưa đủ tính răn đe, cụ thể :

          – Cùng là hành vi bạo lực với trẻ em có dấu hiệu hình sự thì Bộ luật hình sự (BLHS) 2015 quy định rất nghiêm khắc nhưng vẫn những hành vi đó xảy ra thì theo Luật phòng chống bạo lực gia đình hầu như chỉ bị xử phạt hành chính ở mức rất nhẹ, không đủ tính răn đe. Ví dụ, cùng là hành vi bạo lực tinh thần, nếu như BLHS 2015 quy định “Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm song, hành vi này đối với thành viên gia đình chỉ bị phạt tiền chỉ từ 500.000 đồng đến 1.500.000 đồng (Điều 51 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP). Như vậy, quy định về hành vi bạo lực tinh thần trong pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình là quá nhẹ và mâu thuẫn với BLHS 2015 dẫn đến lúng túng cho cơ quan chức năng khi áp dụng pháp luật. Các tình tiết tăng nặng trong BLHS hiện nay mặc dù đã có quy định về tình tiết tăng nặng đối với hành vi phạm tội với trẻ em, tuy nhiên đây là trẻ em nói chung. Để giải quyết vấn nạn bạo hành đối với trẻ em trong gia đình, thiết nghĩ cần bổ sung tình tiết tăng nặng phạm tội đối với con cái. Hành vi hành hạ, ngược đãi gây thương tích, tước đoạt tính mạng của người khác đều là những hành vi mang tính chất đặc biệt nguy hiểm vì nó vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng – một trong những quyền cơ bản của con người, ảnh hưởng xấu cho gia đình và xã hội, làm băng hoại các giá trị đạo đức. Những hành vi này nếu đặt trong quan hệ gia đình với chính con cái của mình thì nó càng mang tính chất nguy hiểm nhiều hơn và cần phải có sự trừng trị nghiêm khắc hơn, bởi bổn phận của cha mẹ khi sinh ra các con là phải yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc cho con đến khi con trưởng thành.

          – Quy định về xử phạt đối với hành vi bạo lực theo quy định của pháp luật phòng chống bạo lực gia đình hầu hết đều quy về xử phạt hành chính và phạt tiền. Cha mẹ là những người nắm giữ tiền bạc trong gia đình, cá mức phạt như quy định hiện hành là quá thấp, không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, vì đối với những người có điều kiện kinh tế thì mức phạt tiền như hiện hành không có ý nghĩa giáo dục với họ. Còn đối với người có điều kiện kinh tế khó khăn thì biện pháp phạt tiền lại càng phản tác dụng do cha mẹ vì phải nộp phạt mà trút giận lên con cái bằng những hành vi bạo lực kinh khủng hơn, tinh vi hơn. Ngoài ra, trong trường hợp người có hành vi bạo lực không có thu nhập thì việc phạt tiền với họ là không khả thi, không có tác dụng và chính gia đình họ lại là những người phải nộp phạt thay, tạo thành gánh nặng tài chính cho gia đình họ.

          Thứ ba, quy định về biện pháp cấm tiếp xúc trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình chưa thực sự có ý nghĩa khi áp dụng vào thực tiễn giải quyết vấn nạn bạo hành của cha mẹ đối với con. Điểm d Khoản 1 Điều 19 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định về việc cấm tiếp xúc: “Cấm người có hành vi bạo lực gia đình đến gần nạn nhân; sử dụng điện thoại hoặc các phương tiện thông tin khác để có hành vi bạo lực với nạn nhân..”. Khi xảy ra hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con, cấm tiếp xúc trong một thời gian giữa nạn nhân và người có hành vi bạo lực là cần thiết để đảm bảo sự an toàn cho nạn nhân và cũng là để giáo dục người có hành vi bạo hành về lỗi lầm của họ. Tuy nhiên, Luật quy định việc áp dụng biện pháp này phải: “Có đơn yêu cầu của nạn nhân bạo lực gia đình, người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; trường hợp cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có đơn yêu cầu thì phải có sự đồng ý của nạn nhân bạo lực gia đình”, điều này có phần chưa khả thi. Bởi vì trẻ em thì chưa đủ tuổi thành niên, hầu hết mọi vấn đề phát sinh trong cuộc sống phải phụ thuộc vào cha mẹ là người đại diện chứ không thể tự mình thực hiện được. Trong tình huống này, nếu trẻ em bị bạo hành và có nguyện vọng được áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc để bảo vệ bản thân mình thì tác giả nhận thấy là bất khả thi bởi trẻ không thể tự mình ký các loại đơn từ, tài liệu nếu không có sự chấp thuận của cha mẹ – người đang có hành vi bạo lực với trẻ. Do đó, việc quy định áp dụng biện pháp cấm tiếp xúc phải “có đơn yêu cầu của nạn nhân, có sự đồng ý của nạn nhân” là chưa phù hợp với thực tiễn và  chưa bảo vệ được các nạn nhân của bạo lực gia đình là trẻ em.

          Thứ tư, các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có vai trò trong việc phòng chống bạo lực và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em hiện chưa được quy định cụ thể, chưa quy trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan, tổ chức khi giải quyết vấn đề bạo hành với trẻ em này. Khi trẻ bị bạo hành và tìm kiếm sự trợ giúp của các cơ quan, tổ chức có liên quan thì người đứng đầu mỗi cơ quan, tổ chức phải có nghĩa vụ giải quyết theo quy định của pháp luật, trường hợp không xử lý mà có hành vi thờ ơ, bỏ mặc hoặc dung túng,bao che…thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Chính việc các quy định hiện hành không ràng buộc trách nhiệm của người đứng đầu dẫn đến đâu đó có những cán bộ thờ ơ, vô cảm với vấn đề bạo hành khi trẻ cần giúp đỡ, nhận nhiệm vụ nhưng lại không có tinh thần trách nhiệm khi giải quyết công việc.

LỜI KẾT

Gia đình là nơi để yêu thương, bao bọc và che chở cho mỗi người, đặc biệt là trẻ em – những người yếu thế trong xã hội. Bạo lực gia đình là hành vi cần phải bị lên án mạnh mẽ, đặc biệt là hành vi bạo lực của chính cha mẹ đối với con cái. Pháp luật hiện hành mặc dù đã có hệ thống quy định để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em nhưng vẫn còn tồn tại những bất cập trong quy định, hình thức xử phạt lại quá nhẹ nhàng nên không đủ sức răn đe, giáo dục người có hành vi bạo lực. Gia đình là được coi là tế bào của xã hội, là nơi gắn bó với mỗi con người kể từ khi được sinh ra. Gia đình luôn là khái niệm được xã hội gắn với kỳ vọng là nơi khởi nguồn của cuộc sống, nơi chứa đựng những yêu thương, che chở, gắn bó bền vững và vô điều kiện, là nơi nuôi dưỡng những điều tốt đẹp trong tâm hồn của mỗi con người. Trẻ em là mầm non tương lai, là những chủ nhân của đất nước, do đó, trẻ em xứng đáng được nuôi dưỡng trong môi trường gia đình lành mạnh, được yêu thương và không phải chịu đựng những hành vi bạo hành từ các thành viên trong gia đình, đặc biệt là cha mẹ. Bài viết giúp tác giả chia sẻ những suy nghĩ và đóng góp những ý kiến cá nhân nhằm giúp hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật hiện hành, để việc phòng chống bạo lực với trẻ em thực sự được đi sâu vào đời sống chứ không mang nặng tính hình thức như hiện nay. Do tầm hiểu biết còn hạn hẹp nên không tránh khỏi bài viết còn nhiều điểm thiếu sót, hạn chế, nhận định sai lầm, Tác giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của để bài viết được hoàn thiện hơn. Xin trân trọng cảm ơn !

———————————

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Các văn bản quy phạm pháp luật như đã nêu trong bài viết.
  2. Các trang tin, bài báo, bài viết nghiên cứu đã tham khảo:
  3. Bài viết : Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình (Tác giả : Đoàn Thị Ngọc Hải – bài đăng trên website Bộ Tư pháp ngày 09/12/2015)
  4. Bài viết : Những rào cản đối với người bị bạo lực gia đình trong việc tìm kiếm các biện pháp hỗ trợ: thực trạng, nguyên nhân và gợi ý chính sách (bài đăng trên website Bộ văn hóa, thể thao và du lịch – Vụ gia đình)
  5. Bài viết : Quy định của pháp luật quốc tế và Việt Nam hiện hành bảo vệ quyền trẻ em trước những hành vi xâm hại (ThS. Lê Thị Thu Hằng- Khoa Nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội)
  6. Một số trang tin, bài viết tham khảo khác.

[1] Tác giả : ThS.CCV Nguyễn Thị Thu Trang – Trưởng VPCC Nguyễn Trang, TP. Hải Phòng

*Chú ý : Vui lòng ghi rõ nguồn khi trích dẫn !