Nghiên cứu đề xuất giải pháp nhằm hạn chế tình trạng thường xuyên thay đổi thành viên hợp danh giữa các Văn phòng công chứng

Tác giả: Nguyễn Thị Thu Trang – ThS.Công chứng viên, Trưởng VPCC Nguyễn Trang – TP. Hải Phòng

  1. Đặt vấn đề

Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững ban hành kèm theo Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/05/2017 của Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh quan điểm: “Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia….Phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, các cấp chính quyền, các bộ, ngành và địa phương; của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mỗi người dân..” Có thể thấy, phát triển bền vững là xu thế tất yếu của thời đại và là mục tiêu trọng tâm phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay mà Đảng, Nhà nước ta đặt ra. Muốn đạt được phát triển bền vững chung của đất nước cần bắt nguồn từ sự phát triển bền vững của từng lĩnh vực trong đó hoạt động công chứng không phải là ngoại lệ thậm chí còn đóng vai trò đặc biệt quan trọng bởi Công chứng viên (CCV) đang là những “người gác cổng” bảo đảm an toàn cho hàng loạt giao dịch dân sự trong toàn diện đời sống kinh tế – xã hội của đất nước. Trách nhiệm xã hội đang đặt lên vai các Công chứng viên, các Tổ chức hành nghề công chứng (TCHNCC) là không hề nhỏ. Bên cạnh các Phòng Công chứng (PCC) là đơn vị sự nghiệp thuộc Sở Tư pháp do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập thì các VPCC hoạt động theo loại hình Công ty hợp danh do tối thiểu 02 CCV đáp ứng đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của pháp luật công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đứng ra thành lập là một điểm mới của Luật công chứng (LCC) 2014 so với LCC 2006. Nghiên cứu nghiêm túc và hoàn thiện các quy định liên quan đến mô hình tổ chức VPCC là vấn đề cần được quan tâm, chú trọng trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động công chứng nhằm hướng đến sự ổn định và phát triển bền vững chung của nghề công chứng và của toàn xã hội theo mục tiêu mà Chính phủ đã đặt ra trong Kế hoạch hành động quốc gia nêu trên.

  1. Mô hình tổ chức và hoạt động của VPCC theo quy định hiện hành

Khi nhắc đến mô hình công ty hợp danh thì Hiến pháp 2013; Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 và Luật Doanh nghiệp (LDN) 2020 sẽ là những văn bản quy phạm pháp luật hàng đầu cần quan tâm. Hiến pháp 2013 bảo hộ quyền tự do kinh doanh của mọi người[2]. BLDS 2015 tiếp tục thể chế quyền hiến định này trong quy định về pháp nhân[3] với uy định cụ thể về loại hình pháp nhân thương mại và phi thương mại[4]. Căn cứ theo các tiêu chí mà BLDS 2015 quy định về pháp nhân, công ty hợp danh được xếp vào nhóm pháp nhân thương mại “có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên[5] và được “..thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan[6]. LDN 2020 là Luật điều chỉnh trực tiếp về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp trong đó có công ty hợp danh. Chương VI của LDN 2020 đã quy định cụ thể về các đặc điểm, cấu trúc của mô hình công ty hợp danh, quyền và nghĩa vụ của các thành viên hợp danh, thành viên góp vốn trong công ty hợp danh..vv.vv. LDN 2020 cũng đồng thời bảo đảm quyền “tự chủ kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh..”[7] của mọi doanh nghiệp. Tuy nhiên, LDN 2020 cũng bảo lưu trường hợp luật khác có quy định đặc thù về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp thì áp dụng quy định của luật đó. Trong tình huống này là VPCC hoạt động dưới sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật công chứng mà cụ thể là LCC số 53/2014/QH13 do Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 20/6/2014. LCC 2014 là văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh các hoạt động công chứng nói chung và mô hình tổ chức, hoạt động VPCC nói riêng. Tiếp nối LCC 2006, LCC 2014 đã tiếp tục tạo ra những thay đổi, chuyển biến tích cực rất đáng hoan nghênh cho hoạt động công chứng nói chung và nghề công chứng tại Việt Nam nói riêng. Công chứng đã thực sự đi vào đời sống, đạt nhiều kết quả cụ thể, tiếp tục đóng góp tích cực vào chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng của Chính phủ; đảm bảo an toàn pháp lý cho nhiều giao dịch trong xã hội đồng thời góp phần tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi, tin cậy cho hoạt động đầu tư, kinh doanh, thương mại…vv… qua đó góp phần quan trọng vào tiến trình cải cách tư pháp tại nước ta. LCC 2014 được đánh giá như một bước tiến lớn làm giảm rõ rệt yếu tố hành chính trong hoạt động công chứng đặc biệt tiếp tục tạo đà phát triển của các VPCC do các CCV thành lập. Các TCHNCC do các CCV tự thành lập đã từng bước thay đổi nhận thức chung của xã hội ghi nhận công chứng là một loại dịch vụ, không còn thuần túy là các hoạt động quản lý hành chính nhà nước được thực hiện bởi các PCC do Nhà nước thành lập như giai đoạn trước. Điểm sơ lược qua một số dẫn chứng nêu trên để thấy hệ thống pháp luật Việt Nam đã thiết kế một cách tương đối đồng bộ, hoàn thiện, thống nhất về các quy định liên quan đến loại hình công ty hợp danh nói chung .

Theo quy định của LCC 2006, CCV có quyền lựa chọn thành lập VPCC hoạt động theo mô hình doanh nghiệp tư nhân hoặc hợp danh với CCV khác để thành lập VPCC hoạt động theo mô hình công ty hợp danh. Quy định này của LCC 2006 đã là cú hích quan trọng cho việc xã hội hóa hoạt động công chứng. Chỉ sau 08 năm thi hành LCC 2006 đã có hơn 600 VPCC được thành lập[8] với phần lớn là các VPCC do 01 CCV thành lập theo mô hình doanh nghiệp tư nhân. Mạng lưới các VPCC từng bước được mở rộng giúp người dân tiếp cận được dễ dàng, nhanh chóng hơn với hoạt động công chứng so với việc tập trung tại các PCC như giai đoạn trước LCC 2006. Sau một thời gian áp dụng, thực tiễn đã cho thấy một số bất cập cá biệt do sự thiếu ổn định của VPCC khi CCV duy nhất chết, vì lý do sức khoẻ hoặc lý do cá nhân không thể hành nghề công chứng. Xuất phát từ thực tiễn này, LCC 2014 đã điều chỉnh quy định về mô hình tổ chức hoạt động của VPCC chỉ còn 01 mô hình là công ty hợp danh do tối thiểu 02 CCV thành lập.  Các VPCC theo loại hình doanh nghiệp tư nhân trước đây cũng phải thực hiện chuyển đổi thành công ty hợp danh, nếu không chuyển đổi được thì bắt buộc phải chấm dứt hoạt động. Trải qua gần 10 năm áp dụng và kết quả từ thực tiễn đã cho thấy những bất cập, vướng mắc khi áp dụng cứng nhắc 01 mô hình hoạt động này cho các VPCC trên toàn quốc. Thực trạng này đặt ra rất nhiều thách thức mới cho phía cơ quan quản lý đòi hỏi có sự nghiên cứu nghiêm túc để điều chỉnh phù hợp.

  1. Vướng mắc, bất cập về mô hình tổ chức, hoạt động của VPCC theo LCC 2014.

VPCC tổ chức hoạt động theo mô hình công ty hợp danh kể từ khi LCC 2014 áp dụng đã khắc phục được một số bất cập về mô hình tổ chức, hoạt động của VPCC mà LCC 2006 đã tạo ra. Quy định này phần nào tạo ra được sự ổn định trong việc duy trì hoạt động của các VPCC khi bảo đảm luôn có CCV tiếp nhận và giải quyết yêu cầu công chứng của người dân. Hồ sơ công chứng được quản lý tập trung hơn, giảm thiểu sự phân tán so với giai đoạn trước. Bên cạnh những điểm tích cực này phải thừa nhận vẫn còn tồn tại một số vấn đề bất cập xuất phát từ việc quy định cứng mô hình tổ chức, hoạt động của VPCC theo LCC 2014. Cụ thể như sau :

  1. LCC 2014 đã thực sự xác định đúng vai trò của VPCC trong hoạt động công chứng?

Theo quan điểm của tác giả, cần nhìn nhận đúng vai trò của VPCC đơn thuần là một pháp nhân được thành lập ra để hỗ trợ CCV hành nghề công chứng và thuần túy thực hiện vai trò, nhiệm vụ của một pháp nhân, không nên đánh đồng giữa vai trò của VPCC với vai trò của CCV. Tác giả hoàn toàn nhất trí rằng, VPCC là một pháp nhân có loại hình kinh doanh đặc biệt được đầu tư, thành lập, quản lý và vận hành bởi những con người đặc thù – các Công chứng viên với vai trò thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công dưới sự ủy nhiệm của Nhà nước đồng thời thực hiện các trách nhiệm nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội cao cả. Vì lý do này, pháp luật công chứng đặt ra những quy định, tiêu chuẩn đặc thù về mô hình tổ chức, hoạt động của VPCC so với các doanh nghiệp thông thường hoạt động theo LDN 2020 là điều cần thiết. Hoạt động công chứng tập trung xoay quanh hai chủ thể chính là VPCC – với tư cách một pháp nhân và CCV – với tư cách một cá nhân mang chức danh tư pháp có trách nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội và thực hiện công việc dưới sự ủy nhiệm của Nhà nước. Tuy nhiên, xét về bản chất gốc rễ không thể chối bỏ, VPCC bản chất là một pháp nhân thương mại “có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên[9]. Các CCV thành lập ra các VPCC, về bản chất không thể chối bỏ chính là một hoạt động mưu sinh, tìm kiếm thu nhập để nuôi sống bản thân, gia đình và xa hơn là tạo công ăn việc làm cho người lao động làm việc cho VPCC, cung cấp các dịch vụ công cho người dân dưới sự ủy nhiệm của Nhà nước, thực hiện các trách nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội. Đánh giá một cách độc lập về vai trò của VPCC dưới bản thể gốc rễ một pháp nhân thương mại là vấn đề mà theo quan điểm của tác giả cần khách quan, trực diện, không trốn tránh, tô vẽ bởi hàng loạt mỹ từ mà cần nghiêm túc, cẩn trọng và trả về đúng vị trí vai trò vốn có của VPCC.

Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững ban hành kèm theo Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/05/2017 của Thủ tướng Chính phủ đã nhắc rằng:“ Con người là trung tâm của phát triển bền vững”[10]. Một tổ chức muốn vận hành ổn định và phát triển bền vững thì nhân tố cốt lõi là con người. VPCC muốn phát triển bền vững thì nhân tố cốt lõi chính là các CCV và hoạt động nghề nghiệp của CCV. Ngược lại, CCV muốn thực thi nhiệm vụ một cách bài bản, ổn định thì cũng cần được đặt trong một môi trường hoạt động chuyên nghiệp, bài bản và ổn định. Có thể nói, VPCC và CCV là hai chủ thể có mối quan hệ tương hỗ qua lại và phụ thuộc lẫn nhau, nhất là trong bối cảnh pháp luật Việt Nam không cho phép CCV được hành nghề với tư cách cá nhân như các Luật sư[11] vì tính chất nghề nghiệp đặc thù của CCV. VPCC muốn hoạt động tốt thì chất lượng CCV phải tốt, ngược lại, CCV muốn yên tâm hành nghề thì thu nhập nhận được từ việc vận hành, duy trì, tổ chức hoạt động VPCC phải mang lại cho CCV thu nhập tương xứng với giá trị sức lao động và trách nhiệm nghề nghiệp mà CCV gánh vác. Mỗi chủ thể lại có vị trí và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ khác nhau mà LCC 2014 đã bóc tách cụ thể tại Chương II và Chương III. Phân tích như vậy để thấy rằng, VPCC và CCV là hai chủ thể độc lập trước pháp luật, có sự tương hỗ, tác động qua lại lẫn nhau nhưng không thể đánh đồng bởi mỗi chủ thể lại có vai trò, nhiệm vụ khác biệt. VPCC không thể làm thay nhiệm vụ nghề nghiệp của CCV, ngược lại, CCV cũng không thể làm thay VPCC trong các vấn đề hoạt động của tổ chức. LCC 2014 dường như đang đánh đồng vai trò của hai chủ thể này và có lẽ đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến bất cập của việc đặt ra quy định cứng VPCC chỉ có 01 mô hình tổ chức, hoạt động theo loại hình công ty hợp danh là phần nào chưa phù hợp với các nguyên tắc tự do, tự chủ mà Hiến pháp 2013 và BLDS 2015 đã đặt ra về quyền tự do kinh doanh của pháp nhân. Do vậy, cần nhìn nhận đúng vai trò của VPCC đơn thuần là một pháp nhân được thành lập ra để hỗ trợ CCV hành nghề công chứng và thuần túy thực hiện vai trò, nhiệm vụ của một pháp nhân, không đánh đồng vai trò của VPCC với vai trò của CCV. Việc xác định đúng vai trò của VPCC sẽ là chìa khóa đầu tiên giải quyết bài toán bất cập của việc hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng thay đổi thành viên hợp danh tại các VPCC đang diễn ra tràn lan như hiện nay.

  1. Không có thành viên góp vốn trong VPCC liệu đã phù hợp thực tiễn?

Sự bùng nổ với số lượng quá nhanh chóng của các VPCC trong giai đoạn áp dụng LCC 2006 cùng với đó là xuất hiện các hiện tượng tranh giành, lôi kéo khách hàng, cạnh tranh không lành mạnh làm biến tướng hoạt động công chứng là nguyên nhân dẫn đến việc cơ quan quản lý bắt buộc phải thiết lập các cơ chế để quy hoạch lại việc phân bổ và cấp phép thành lập VPCC. Một thời kỳ áp dụng quy hoạch cùng hàng loạt điều kiện ngặt ngèo được đặt ra đã khiến cho việc CCV đủ điều kiện đáp ứng được các tiêu chuẩn để xin phép thành lập VPCC không hề dễ dàng bởi chi phí đầu tư về nhân sự, hồ sơ liên quan, cơ sở vật chất..vv.vv nhằm đáp ứng đủ tiêu chuẩn được cấp phép thành lập là không hề nhỏ. Không phải CCV nào cũng đủ khả năng về tài chính để có thể đầu tư cho việc thành lập VPCC. Thành lập VPCC cũng đồng nghĩa các CCV bắt đầu khởi nghiệp, mà đâu phải bất cứ ai khởi nghiệp đều có thể tự tin khẳng định rằng cứ khởi nghiệp là sẽ thành công? Thành lập ra đã khó, duy trì và vận hành hoạt động của VPCC lại càng không hề đơn giản và đòi hỏi ở các CCV rất nhiều kiến thức, kỹ năng về quản trị tài chính, quản trị nhân sự, quản trị doanh nghiệp…vv.vv bên cạnh hoạt động chuyên môn nghề nghiệp. Thực tế này đã kéo theo hiện tượng phía sau các CCV là các “Nhà đầu tư” thực sự chi trả chi phí, hỗ trợ các điều kiện về nhân sự, cơ sở vật chất, kinh nghiệm quản lý vận hành..vv.vv để các CCV có thể đáp ứng được các điều kiện xin cấp phép thành lập và duy trì hoạt động của VPCC. Nhìn ở một khía cạnh tích cực, đây là một sự hợp tác cực kỳ có lợi cho CCV và có lợi cho sự phát triển ổn định, bền vững của VPCC khi có một xuất phát điểm với nền tảng tài chính bền vững cùng các cộng sự phù hợp bởi đâu phải “Nhà đầu tư” nào cũng xấu xí? Nhưng nhìn ngược lại, nếu CCV không có bản lĩnh nghề nghiệp để bị thao túng, dẫn dắt trong hoạt động nghề nghiệp bởi các “Nhà đầu tư” thì lại là rủi ro tai hại cho chính bản thân các CCV và VPCC. Khoảng tháng 02/2023, dư luận và truyền thông, mạng xã hội đồng loạt đưa nhiều tin bài về vụ việc một nữ CCV công tác tại một VPCC ở Quảng Ninh phải nhập viện vì bị một người đàn ông dùng chân đá sưng mặt, nhổ nước bọt vào mặt ngay tại trụ sở trong lúc hành nghề. Nguồn tin của báo Thanh Niên cho biết, qua điều tra ban đầu của cơ quan chức năng, vụ việc nói trên xuất phát từ mâu thuẫn trong việc quản lý VPCC[12]. Thời điểm đó, Hiệp hội CCV Việt Nam, Hội CCV tỉnh Quảng Ninh, Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ninh và hàng loạt cơ quan pháp luật đã nhanh chóng vào cuộc để giải quyết vụ việc. Cũng từ sự việc này, quy định “VPCC không có thành viên góp vốn[13] được đặt ra câu hỏi liệu rằng có còn thực sự phù hợp với thực tiễn đang diễn ra trong việc đầu tư, thành lập VPCC. Hay quy định này vô tình tạo ra một nhóm chủ thể ngầm là các “Nhà đầu tư” đang chi phối hoạt động của các VPCC mà pháp luật đang bỏ ngỏ không có hành lang pháp lý cụ thể điều chỉnh? Dẫn đến khi xảy ra những rắc rối như trường hợp mà tác giả nêu trên thì bản thân CCV, VPCC và chính các cơ quan quản lý cũng bị lúng túng trong quá trình giải quyết?

LDN 2020 quy định tại công ty hợp danh: “..ngoài các thành viên hợp danh, công ty có thể có thêm thành viên góp vốn..[14] đồng thời cũng đặt ra các quy định rất cụ thể về quyền, nghĩa vụ của thành viên góp vốn trong đó có quy định thành viên góp vốn “không được tham gia quản lý công ty, không được tiến hành công việc kinh doanh nhân danh công ty[15]. Những bất cập như tác giả nêu trên của LCC 2014 khi không thừa nhận thành viên góp vốn của VPCC đang đặt ra nhiều thách thức không hề đơn giản. Các quy định của LDN 2020 về thành viên góp vốn, quyền/ nghĩa vụ của thành viên góp vốn phải chăng chính là lời giải cho bất cập này của LCC 2014?

  1. Quyền tự do lựa chọn mô hình kinh doanh của CCV đã được bảo vệ?

LDN 2020 bảo lưu tại Điều 3 về trường hợp luật khác có quy định đặc thù về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp thì áp dụng quy định của luật đó, tình huống này hoạt động của VPCC được tổ chức theo loại hình công ty hợp danh nhưng đồng thời phải chịu sự chi phối bởi quy định của LCC 2014. Ngược lại, LCC 2014 cũng quy định rằng : “VPCC được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đối với loại hình công ty hợp danh[16]. Như vậy có thể ngầm hiểu rằng, cho dù có những đặc trưng riêng biệt bị chi phối bởi quy định của LCC 2014, VPCC vẫn phải bảo đảm các đặc điểm về tổ chức hoạt động theo quy định của LDN 2020. Các câu hỏi đặt ra ở đây là (i) chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên công ty hợp danh đều phải chịu trách nhiệm vô hạn về hoạt động của pháp nhân bằng toàn bộ tài sản của mình? (ii) LCC 2014 đã trù liệu các tình huống nếu CCV chết; CCV bị tạm đình chỉ hoặc đình chỉ hành nghề; VPCC tạm ngừng, hợp nhất, sáp nhập hoặc chấm dứt hoạt động…vv..vv Vậy thì, lợi thế là gì khi buộc các CCV phải khiên cưỡng hợp danh thành lập VPCC theo mô hình công ty hợp danh với tối thiểu 02 CCV tham gia thành lập? (iii) Ngoài ra, vấn đề quyền tự do lựa chọn mô hình kinh doanh mà BLDS 2015 và LDN 2020 quy định tại Điều 7 đã thực sự được bảo đảm trong tình huống này cho bản thân các CCV? Qua tìm hiểu tác giả được biết, mô hình tổ chức, hoạt động của các VPCC tại CHLB Đức và Pháp rất hiếm các trường hợp VPCC có 02 CCV trở lên cùng tham gia góp vốn thành lập.

Các CCV khi cùng góp vốn đầu tư thành lập VPCC về bản chất là cùng góp vốn để thành lập một doanh nghiệp, cùng kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận thông qua các hoạt động nghề nghiệp của mình. Hợp tác kinh doanh chưa bao giờ là một việc dễ dàng xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Việc hợp tác kinh doanh giữa những người thân trong gia đình còn xảy ra nhiều phức tạp huống hồ là giữa các CCV – các cá thể sinh trưởng, học tập, trưởng thành trong các môi trường sống khác nhau với nhân sinh quan khác biệt mà thực tế thương trường Việt Nam đã chỉ ra nhiều bài học[17]. Các CCV trước hết là những cử nhân Luật, có thâm niên công tác pháp luật và đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định trước khi được bổ nhiệm làm CCV. Nghề Luật lại là nghề cực kỳ đặc thù khi đề cao quan điểm tư duy cá nhân của mỗi người hành nghề. Chất lượng công việc gắn liền với thương hiệu cá nhân của mỗi CCV. Những nguyên nhân chủ quan này, vốn dĩ, đã tiềm ẩn rất nhiều rủi ro khiến cho giữa các CCV hợp danh xảy ra xung đột về quan điểm, tư duy trong hoạt động nghề nghiệp cũng như quá trình quản lý, tổ chức, vận hành VPCC vì không dễ để có thể tìm được tiếng nói chung. Việc các CCV phải khiên cưỡng hợp danh để đủ điều kiện thành lập VPCC theo quy định của LCC 2014 liệu có phải là nguyên nhân cốt lõi của tình trạng xảy ra tranh chấp giữa nội bộ các CCV hợp danh, giữa các CCV với “Nhà đầu tư” trong một VPCC vì những bất đồng trong khâu tổ chức và vận hành hoạt động? Những địa bàn vùng sâu, vùng xa, điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, lượng việc chưa nhiều, VPCC chỉ cần 01 CCV cũng có thể đáp ứng giải quyết công việc cho người dân nhưng VPCC vẫn phải tìm đủ 02 CCV để bảo đảm quy định của LCC 2014 cũng là vấn đề hết sức bất cập. Thực trạng hiện nay là một lượng lớn các CCV dồn tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Tp. HCM, Hải Phòng, Đà Nẵng… Tại chính các địa phương lớn này thì tình trạng phổ biến cũng là các CCV cũng tập trung vào khu vực đô thị và quận trung tâm nơi có nhiều giao dịch chứ không thiết tha với việc trở về công tác tại địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Vì sao? CCV không thiết tha với việc trở về địa phương hoặc địa bàn nông thôn để công tác bởi họ hầu như không có hoặc có rất ít cơ hội để có thể tự mình thành lập VPCC. Hoạt động nghề nghiệp của CCV lại bị bó hẹp bởi sự cạnh tranh của hoạt động chứng thực mà các UBND đang thực hiện. CCV muốn về để thành lập VPCC ở địa bàn nông thôn để phục vụ người dân thì lại bị cản trở bởi chính quy định bắt buộc phải có 02 CCV hợp danh trở lên trong khi để tìm được CCV đồng hành cùng trở về công tác tại địa phương là không hề dễ dàng. Thu nhập của CCV tại địa bàn nông thôn thì không được bảo đảm bởi lượng việc tập trung hầu hết vào các UBND, VPCC không có nhiều công việc, giá trị giao dịch thấp thì làm sao mà có thể chi trả phúc lợi tốt cho CCV? Chưa kể tình trạng khi CCV hành nghề trên địa bàn còn vấp phải sự cạnh tranh không lành mạnh của một bộ phận cán bộ UBND, không phối hợp, không cung cấp thông tin tài liệu … trong quá trình CCV tiến hành xác minh đã khiến CCV gặp muôn vàn khó khăn khi giải quyết công việc cho người yêu cầu công chứng. Các vụ việc truy cứu trách nhiệm hình sự và liên đới bồi thường thiệt hại đối với lỗi vô ý của CCV, thậm chí liên đới trách nhiệm trong khi bản thân CCV cũng là nạn nhân của hành vi gian dối, lừa đảo của người yêu cầu công chứng xảy ra quá nhiều trong thời gian gần đây có phải là nguyên nhân của tình trạng một bộ phận CCV không muốn thực sự hành nghề mà chỉ muốn “hợp danh ảo”, “cho thuê hợp danh không ký” đang xảy ra? Tình trạng này cũng dẫn đến hiện tượng giành giật/ lôi kéo CCV giữa các VPCC nên không bảo đảm tính ổn định, bền vững; việc các VPCC thường xuyên thay đổi CCV cũng gây không ít khó khăn, phức tạp cho công tác quản lý nhà nước về hoạt động công chứng ở địa phương, công tác quản lý CCV của Hội CCV các tỉnh/thành phố cũng như Hiệp hội CCV Việt Nam hiện nay? Với môi trường hoạt động không ổn định, thiếu tính bền vững với những bất cập như tác giả nêu trên thì làm sao các CCV có thể yên tâm công tác, yên tâm hoạt động nghề nghiệp để thực sự trở thành người gác cổng bảo đảm an toàn cho hàng loạt giao dịch dân sự trong đời sống xã hội?

Thiết nghĩ, những vướng mắc, bất cập nêu trên đang đặt ra cho LCC (sửa đổi) lần này những nhiệm vụ quan trọng đòi hỏi cấp bách, khẩn trương giải quyết nhằm khắc phục và hướng đến sự phát triển bền vững của hoạt động công chứng nói chung và nghề công chứng nói riêng tại Việt Nam trong tương lai.

III. Kiến nghị giải pháp khắc phục vướng mắc, bất cập

  1. Cần trả lại đúng vai trò cho VPCC là bộ máy phục vụ, hỗ trợ cho CCV

Công chứng là một nghề cao quý, bởi hoạt động công chứng bảo đảm tính an toàn pháp lý, ngăn ngừa tranh chấp, giảm thiểu rủi ro cho các hợp đồng, giao dịch, qua đó bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức[18] Hoạt động công chứng bao gồm hoạt động nghề nghiệp của cá nhân CCV và hoạt động vận hành của pháp nhân VPCC trong mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau trong đó CCV đóng vai trò nòng cốt bởi “Con người là trung tâm của phát triển bền vững”[19] Do vậy, yếu tố cốt lõi tạo ra sự phát triển bền vững của hoạt động công chứng phải là tập trung vào chất lượng CCV đồng thời kiến tạo môi trường pháp lý tốt nhất để CCV phát huy năng lực trong hoạt động nghề nghiệp. Quản lý hoạt động công chứng cần gắn liền với quản lý trực tiếp hoạt động nghề nghiệp của các cá nhân CCV chứ không phải phụ thuộc vào VPCC. Sự đánh đồng vai trò của VPCC với vai trò của CCV trong hoạt động công chứng sẽ dẫn đến những vướng mắc, bất cập trong quy định về mô hình tổ chức, hoạt động của VPCC. Theo quan điểm của tác giả, VPCC cần được trả về đúng vị trí đơn giản là một pháp nhân thương mại được ra đời bởi các CCV và nhằm mục đích phục vụ, hỗ trợ CCV có được điều kiện hoạt động nghề nghiệp tốt nhất. VPCC chỉ đóng vai trò là pháp nhân hỗ trợ cho CCV trong công tác lưu trữ hồ sơ, quản lý nhân sự, quản lý thuế, tài chính mà thôi. Nhìn ra thế giới, giá trị pháp lý của hoạt động công chứng tại Pháp, Đức nằm ở sự chứng nhận và chữ ký của CCV, không phải nằm ở con dấu của VPCC. Việc bồi thường thiệt hại xảy ra được thực hiện bởi các Quỹ chung của CCV và toàn bộ tài sản của CCV. VPCC đơn thuần chỉ là nơi làm việc và hỗ trợ cho CCV hành nghề. Việc tiến tới xóa bỏ con dấu và sử dụng chữ ký điện tử đang là xu thế chung của thế giới mà Việt Nam cần nghiêm túc nghiên cứu và có lộ trình thích ứng cụ thể trong bối cảnh đất nước ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới về mọi mặt.

  1. Cần xem xét trả VPCC về đúng mô hình công ty hợp danh mà LDN 2020 đã quy định.

Như tác giả đã phân tích trong bài viết, thực trạng tồn tại những “Nhà đầu tư” ẩn danh sau nhiều VPCC và gây ra hàng loạt vấn đề nhức nhối nhưng lại khó có thể ràng buộc trách nhiệm khi xử lý hậu quả vì thiếu đi hàng lang pháp lý thừa nhận vị trí, vai trò cũng như quy định cụ thể về quyền/ nghĩa vụ của những “Nhà đầu tư” này. Sự cao quý của nghề công chứng nằm ở hoạt động nghề nghiệp và đạo đức hành nghề của CCV. Bồi dưỡng chất lượng chuyên môn và đạo đức hành nghề của CCV tốt mới là yếu tố giữ gìn sự cao quý của nghề. Né tránh một hiện thực mà xã hội đang vận hành khi đề cao “sự cao quý” và không thừa nhận các “Nhà đầu tư” không phải là cách thức để giải quyết vấn đề bất cập này. LDN 2020 quy định về mô hình công ty hợp danh với thành viên hợp danh, thành viên góp vốn rất chi tiết, đầy đủ và phản ánh đúng bản chất cũng như thực tiễn. Mô hình hoạt động của các Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới được thành lập bởi sự hợp tác của các pháp nhân đủ điều kiện và các đăng kiểm viên đủ tiêu chuẩn bổ nhiệm[20] là mô hình có thể tham khảo, xem xét về tính khả thi khi áp dụng quy định về công ty hợp danh theo LDN 2020. Thiết nghĩ, nếu như pháp luật bảo đảm một hành lang pháp lý đầy đủ thừa nhận vai trò, quy định cụ thể quyền/ nghĩa vụ của các “Nhà đầu tư” theo đúng nguyên tắc thành viên góp vốn“không được tham gia quản lý công ty, không được tiến hành công việc kinh doanh nhân danh công ty”[21] thì không những tạo thêm được nguồn lực chính thức cho sự phát triển hoạt động công chứng mà còn là hành lang pháp lý bài bản để ràng buộc trách nhiệm của các “Nhà đầu tư” khi để xảy ra sai phạm hoặc bồi thường thiệt hại, xử lý vi phạm trong hoạt động công chứng.

  1. Triệt để tôn trọng và bảo đảm quyền tự do lựa chọn mô hình kinh doanh của CCV khi thành lập VPCC.

Tự do kinh doanh, tự do lựa chọn loại hình kinh doanh, tự chủ trong kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh là quyền của mọi người đã được ghi nhận bởi Hiến pháp, BLS 2015, LDN 2020 và pháp luật có liên quan. CCV trước hết cũng là một con người, một công dân trong xã hội và quyền tự do lựa chọn mô hình kinh doanh khi CCV thành lập VPCC cũng là vấn đề cần được tôn trọng và bảo đảm. Việc cho phép CCV lựa chọn mô hình tổ chức hoạt động của VPCC theo loại hình công ty hợp danh hoặc doanh nghiệp tư nhân một mặt tạo sự chủ động cho CCV trong việc chọn mô hình tổ chức phù hợp với điều kiện thực tế nơi CCV hành nghề, mặt khác vẫn bảo đảm VPCC hoạt động theo loại hình công ty đối nhân, CCV chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với văn bản công chứng mà mình thực hiện. Đây cũng là cách thức tốt nhất để chấm dứt tình trạng hợp danh khiên cưỡng, thường xuyên thay đổi CCV hợp danh của các VPCC, “cho thuê”, “cho mượn” tư cách hợp danh mà không thực tế hành nghề của CCV. Trường hợp CCV chết hoặc xảy ra biến động đối với VPCC thì LCC đã trù liệu các biện pháp xử lý rất cụ thể. Xin nhấn mạnh rằng Việt Nam hiện nay không hề thiếu CCV. Tác giả tìm hiểu và được biết hiện nay toàn quốc có khoảng hơn 3.200 CCV đang hành nghề trên tổng số 705 địa bàn quận, huyện trên cả nước chưa kể đội ngũ kế cận là đông đảo các Thư ký nghiệp vụ công chứng đã/ đang theo học khóa đào tạo bồi dưỡng nghề công chứng tại Học viện Tư pháp, đã/ đang đăng ký tập sự hành nghề công chứng dưới sự hướng dẫn của các CCV… Cá nhân tác giả tin tưởng rằng, khi ban hành LCC (sửa đổi) xác định rõ mô hình hoạt động công chứng nội dung như tác giả đã phân tích nêu trên, từng bước xóa bỏ thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã, mạnh dạn cho phép thành lập các VPCC do 01 CCV thành lập tại các khu vực ngoại thành, nông thôn, vùng sâu – vùng xa thì lực lượng CCV hoàn toàn có thể phủ sóng phân bổ lại đồng đều và đủ khả năng cung cấp dịch vụ công chứng trên toàn quốc để phục vụ nhân dân. Việc này đồng thời giúp giải quyết các vấn đề sau :

– Đẩy nhanh tốc độ xã hội hóa hoạt động công chứng, phổ cập hoạt động công chứng về địa bàn nông thôn, không chỉ tập trung về các thành phố lớn một cách mất cân đối như hiện nay;

– Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính tại khối UBND đặc biệt trong hoạt động quản lý, đăng ký hộ tịch. Các cán bộ khối UBND cũng tập trung chuyên môn vào vai trò quản lý hành chính nhà nước vốn đã luôn quá tải, không phải kiêm nhiệm những công việc chuyên ngành đòi hỏi chuyên môn sâu như lĩnh vực công chứng; chấm dứt tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi” khi vừa quản lý thông tin, vừa chứng nhận giao dịch dẫn đến có tình trạng thiếu khách quan, trung thực trong quá trình giải quyết công việc cho người dân

– Thông tin về các giao dịch trong xã hội được tập trung về một đầu mối là cơ quan quản lý thông tin công chứng, như vậy, Nhà nước có thể có được thông tin chính xác, nhanh chóng về các hợp đồng, giao dịch trong xã hội; từng bước hạn chế hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản như tác giả đã trình bày; kịp thời điều tiết, phân bổ số lượng CCV cũng như TCHNCC phù hợp với thực tiễn hoạt động của từng địa bàn trên toàn quốc một cách khoa học căn cứ trên số liệu thống kê về tình hình công chứng các hợp đồng, giao dịch tại từng địa phương; kịp thời ban hành các chính sách liên quan đến CCV; từng bước chấn chỉnh, hướng dẫn các hoạt động chuyên môn của CCV nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất chung trong cả hệ thống công chứng trên toàn quốc…

Tạm kết

Liên quan đến việc đề xuất giải pháp nhằm hạn chế tình trạng thay đổi CCV hợp danh tại các VPCC còn rất nhiều vấn đề mà cơ quan quản lý cần xem xét, đánh giá dựa trên tổng kết thực tiễn tình hình áp dụng LCC 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trọng tâm ý kiến đóng góp của tác giả xoay quanh việc cần xác định lại rõ nét ưu, nhược điểm của quy định VPCC tổ chức, hoạt động theo mô hình công ty hợp danh kể từ khi LCC 2014 được ban hành đến nay; phân tích bản chất của VPCC, vị trí, vai trò của VPCC và CCV trong hoạt động công chứng đồng thời xem xét vấn đề dưới khía cạnh bảo đảm quyền tự do, tự chủ trong lựa chọn mô hình kinh doanh của CCV từ đó đề xuất các kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật. Loại bỏ những vấn đề không phù hợp và định hướng xây dựng được tập hợp hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ, hiệu quả, không bị chồng chéo, mâu thuẫn gây nhiều bất cập cho hoạt động công chứng nói chung và cho CCV nói riêng trong quá trình hành nghề sẽ là tiền đề để CCV yên tâm công tác, thực sự là “người gác cổng” bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch góp phần nâng cao nhận thức chấp hành pháp luật của người dân, giữ gìn trật tự – trị an trong xã hội.

 

[1] Tác giả: Nguyễn Thị Thu Trang – Công chứng viên – Trưởng VPCC Nguyễn Trang, TP. Hải Phòng

[2] Điều 33 Hiến pháp 2013 quy định “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm

[3] Khoản 2, Điều 74 BLDS 2015 quy định : “Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân, trừ trường hợp luật có quy định khác

[4],5,6 Điều 75, 76 BLDS 2015; Điều 7 LDN 2020.

[8] Văn phòng công chứng: Có nên giữ nguyên mô hình công ty hợp danh? | Báo Pháp luật Việt Nam điện tử (baophapluat.vn)

[9] Điều 75 BLDS 2015.

[10] Khoản 3, Mục I. Quan điểm – Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững ban hành kèm theo Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/05/2017 của Thủ tướng Chính phủ

[11] Điều 23 Luật Luật sư 2006, sửa đổi 2012.

[12] Quảng Ninh: Nữ công chứng viên bị người đàn ông nhổ nước bọt, đá sưng mặt (thanhnien.vn)

[13],12 Khoản 1, Điều 22 LCC 2014

[14] Điểm a, khoản 1 Điều 177 LDN 2020.

[15] Điểm b, khoản 2, Điều 187 LDN 2020.

[17] https://dantri.com.vn/kinh-doanh/tranh-chap-giua-ong-chu-cafe-trung-nguyen-va-vo-cu-5-bo-vao-cuoc-van-tac-20210114071616910.htm

[18] Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng (Ban hành kèm theo Thông tư số 11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp)

[19] Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững ban hành kèm theo Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/05/2017 của Thủ tướng Chính phủ

[20] Nghị định số 139/2018/NĐ-CP ngày 08/10/2018 quy định về kinh doanh dịch vụ kiểm định xe cơ giới, sửa đổi bổ sung bởi Nghị định số 30/2023/NĐ-CP ngày 08/06/2023 của Chính Phủ

[21] Điểm b, khoản 2, Điều 187 LDN 2020.

*Chú ý : Vui lòng ghi rõ nguồn khi trích dẫn !